Việc hiểu đúng và rõ về khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán không chỉ
có ý nghĩa trong việc phân biệt với khái niệm bảo lãnh về nghĩa vụ dân sự mà
còn có ý nghĩa trong việc áp dụng bảo lãnh phát hành chứng khoán đối với chủ
thể bảo lãnh. Từ đó, thấy được những đặc trưng cơ bản của bảo lãnh phát hành
chứng khoán và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Hơn thế
nữa, thông qua việc bàn về khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán để thấy
rằng đơn vị thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán được pháp luật chứng
khoán đặt ra những quy định về điều kiện bảo lãnh là nghiêm khắc hơn so với
các loại bảo lãnh khác ở dân sự hoặc thương mại. Đặc biệt, thấy được việc nên
bổ sung chủ thể bảo lãnh là cá nhân và quy định điều kiện đối với chủ thể đó là
điều cần thiết và cấp bách của pháp luật về chứng khoán
5 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bàn về khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 75 – 79 Part B: Political Sciences, Economics and Law
75
BÀN VỀ KHÁI NIỆM BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
Nguyễn Kim Nam1, Đoàn Thanh Vũ2
1Trường Cao đẳng Công thương TP.HCM
2Số 20, Tăng Nhơn Phú, Phước Long B, Quận 9
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 21/10/15
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
02/03/16
Ngày chấp nhận đăng: 06/16
Title:
A discussion on the concept of
securities issuance guarantee
Từ khóa:
Bảo lãnh, phát hành chứng
khoán
Keywords:
Guarantee, securities
underwriting
ABSTRACT
Understanding accurately the concept of securities issuance guarantee would
help the guarantor not only to distinguish the concept of civil obligations’
guarantee, but also to be insight into the application of securities issuance
guarantee. As a result, people can understand the basic characteristics of the
securities issuance guarantee and its contracts. Moreover, in terms of the
discussion, it is clearly seen that the regulations, procedures, and conditions
issued by the securities issuance guarantee sectors are stricter compared with
the other guarantees in civil or commerce sectors. In particular, the guarantors
in this situation could be individuals and followed by requirements are essential
for these individuals due to the securities legislation.
TÓM TẮT
Việc hiểu đúng và rõ về khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán không chỉ
có ý nghĩa trong việc phân biệt với khái niệm bảo lãnh về nghĩa vụ dân sự mà
còn có ý nghĩa trong việc áp dụng bảo lãnh phát hành chứng khoán đối với chủ
thể bảo lãnh. Từ đó, thấy được những đặc trưng cơ bản của bảo lãnh phát hành
chứng khoán và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Hơn thế
nữa, thông qua việc bàn về khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán để thấy
rằng đơn vị thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán được pháp luật chứng
khoán đặt ra những quy định về điều kiện bảo lãnh là nghiêm khắc hơn so với
các loại bảo lãnh khác ở dân sự hoặc thương mại. Đặc biệt, thấy được việc nên
bổ sung chủ thể bảo lãnh là cá nhân và quy định điều kiện đối với chủ thể đó là
điều cần thiết và cấp bách của pháp luật về chứng khoán.
Kể từ khi thị trường chứng khoán được hình
thành, trong giao lưu thương mại bắt đầu xuất
hiện thuật ngữ mới có liên quan đến bảo lãnh
(BL) đó là thuật ngữ “bảo lãnh phát hành chứng
khoán”(BLPHCK). Mặc dù cũng có bản chất là
hành vi pháp luật nhưng với tính chất là hành vi
kinh doanh trên thị trường chứng khoán (TTCK),
nên khái niệm BLPHCK cần được phân tích, tìm
hiểu ở những góc độ khác nhau nhằm phân biệt
với BL được quy định ở dân luật.
Trong ngôn ngữ thông thường, BL được hiểu là
việc một người cam kết với người khác sẽ nhận
lấy trách nhiệm về mình để thực hiện công việc
nhất định, trên cơ sở đó tùy thuộc vào thỏa thuận
của bên nhận BL với bên BL để bên BL nhận
hoặc không nhận tiền thù lao BL. Tuy nhiên, đều
là khoa học pháp lý, nhưng BL theo Luật Chứng
khoán còn có điểm khác biệt so với BL theo Luật
Dân sự. Trong khi đó, theo lý luận về pháp luật thì
Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 75 – 79 Part B: Political Sciences, Economics and Law
76
quy định luật riêng không được trái với luật chung
đó là dân luật (civil law).
Điều 6 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Chứng khoán 2006 thì khái niệm BLPHCK được
ghi nhận: “BLPHCK là việc tổ chức BL phát hành
cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ
tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua
một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức
phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán
còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát
hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc
phân phối chứng khoán ra công chúng”. Quy
định này cho thấy, BLPHCK là quyền của chủ thể
BL. Và tính từ thời điểm BL chỉ có hai chủ thể
chính là bên BL và bên nhận BL.
Trong khi đó, Điều 361 Bộ Luật Dân sự năm 2005
(BLDS 2005) cũng như Điều 367 BLDS dự thảo
2015 có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017 quy
định: “BL là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên
BL) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận BL) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây được gọi là bên được BL), nếu
khi đến thời hạn mà bên được BL không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên
cũng có thể thỏa thuận về việc bên BL chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ khi bên được BL không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Với quy định
đó, BL được hiểu là biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, trong đó người thứ ba dùng tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác chứ
không phải là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chính
chủ sở hữu tài sản như các chế định bảo đảm
khác. Vì vậy, trong biện pháp BL bên bảo đảm
không phải là bên có nghĩa vụ được bảo đảm,
đồng thời không chỉ có hai chủ thể chính là bên có
quyền và bên có nghĩa vụ mà có ít nhất ba chủ thể
đó là: Bên BL, bên nhận BL và bên có nghĩa vụ
(Hoàng Thế Liên, 2009).
So sánh khái niệm về BLPHCK được quy định tại
khoản 22 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều luật của Luật Chứng khoán 2006 được Quốc
hội Khóa 12 ngày 14 tháng 11 năm 2010 thông
qua so với khái niệm về BL được quy định tại
Điều 361 BLDS 2005, thiết nghĩ khi hiểu, phân
tích khái niệm BLPHCK cần làm rõ một số nội
dung cơ bản sau:
1. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA BẢO LÃNH
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
- BLPHCK bao giờ cũng được thực hiện bởi
những tổ chức chuyên nghiệp là công ty chứng
khoán (CTCK) hoặc tổ chức khác được phép
cung ứng dịch vụ BLPHCK. Trên nguyên tắc,
các chủ thể này phải được cấp giấy phép hoạt
động BLPHCK và phải tiến hành đăng ký kinh
doanh với cơ quan có thẩm quyền về hoạt
động BLPHCK. Đây chính là điểm khác biệt
so với quy định về BL theo dân luật chủ yếu
đặt ra là nghĩa vụ dân sự về tài sản của người
BL và người BL không nhất thiết phải có giấy
phép hoạt động BL của cơ quan có thẩm
quyền.
- BLPHCK không phải là cam kết bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự như định nghĩa tại Điều
361 BLDS 2005 mà thực chất chỉ là cam kết
bảo đảm thực hiện quyền phát hành chứng
khoán của tổ chức phát hành. Có thể khẳng
định như vậy vì, đối tượng của hành vi
BLPHCK ra công chúng chính là việc phát
hành chứng khoán ra công chúng của tổ chức
phát hành và vốn dĩ về bản chất, việc phát
hành chứng khoán ra công chúng chỉ là quyền
chứ không phải là nghĩa vụ tài sản của tổ chức
phát hành cần phải thực hiện đối với người thứ
ba. Nói cách khác, do không phải là hình thức
bảo đảm nghĩa vụ dân sự nên BLPHCK không
có cấu trúc chủ thể như quan hệ bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Đặc điểm này cho phép
phân biệt BLPHCK với các hình thức BL khác
có tính chất như là cam kết bảo đảm nghĩa vụ
dân sự.
- BLPHCK là dịch vụ thương mại, theo đó bên
BLPHCK cam kết thực hiện một hoặc một số
công việc cho tổ chức phát hành chứng khoán
để nhận tiền thù lao dịch vụ theo thỏa thuận.
Tuy có cùng tính chất là dịch vụ thương mại
giống như BL ngân hàng nhưng hoạt động
Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 75 – 79 Part B: Political Sciences, Economics and Law
77
BLPHCK khác với hoạt động BL ngân hàng ở
chỗ BLPHCK không phải là cam kết bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong khi BL ngân
hàng vừa là loại hình dịch vụ thương mại
nhưng đồng thời cũng là hình thức bảo đảm
nghĩa vụ dân sự.
Như vậy, về bản chất pháp lý, BLPHCK thực chất
là hành vi cung ứng dịch vụ có tính chất thương
mại để kiếm lời chứ không phải là hành vi bảo
đảm nghĩa vụ dân sự giống như việc cầm cố, thế
chấp, hay ký cược, đặt cọc theo quy định tại các
điều từ 318 đến 373 của BLDS 2005. Nói cách
khác, BLPHCK thể hiện quyền của chủ thể BL
hơn là nghĩa vụ như BL được quy định ở Luật
Dân sự.
2. HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ BẢO LÃNH
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN.
- Trong quá trình tác nghiệp kinh doanh, tổ chức
BLPHCK nhất thiết phải ký kết hợp đồng dịch
vụ với tổ chức phát hành để làm cơ sở pháp lý
cho việc thực hiện dịch vụ BLPHCK. Khi đó,
hợp đồng dịch vụ BLPHCK được xem như là
công cụ pháp lý để thực hiện nghiệp vụ
BLPHCK. “Hợp đồng dịch vụ BLPHCK được
hiểu là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ
chức BL phát hành chứng khoán với tổ chức
phát hành chứng khoán, theo đó bên cung ứng
dịch vụ cam kết thực hiện các thủ tục trước khi
chào bán chứng khoán, nhận mua một phần
hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát
hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn
lại chưa bán hết hoặc hỗ trợ tổ chức phát
hành trong việc phân phối chứng khoán ra
công chúng” (Phạm Thị Giang Thu, 2008,
trang 314).
Như vậy, hợp đồng dịch vụ BLPHCK thực chất là
hợp đồng dịch vụ thương mại. Và hợp đồng này
có đối tượng là công việc mà bên cung ứng dịch
vụ cam kết thực hiện cho bên sử dụng dịch vụ để
được nhận tiền công dịch vụ là phí BLPHCK.
Công việc này có điểm đặc thù là gắn với việc sử
dụng các kĩ thuật nghiệp vụ kinh doanh của tổ
chức BLPHCK và chỉ có những tổ chức nghề
nghiệp chuyên môn như CTCK mới có khả năng
thực hiện. Còn đối với khoản phí dịch vụ
BLPHCK, do có bản chất là tiền công hay giá cả
của dịch vụ thương mại nên khoản phí này thường
phản ánh các chi phí mà các bên cung ứng dịch vụ
đã bỏ ra để tiến hành dịch vụ và đảm bảo có lãi
hợp lý.
Điều 632 BLDS 2005 quy định: “Việc BL phải
được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản
riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong
trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản BL
phải được công chứng hoặc chứng thực”. Điều
này, đồng nghĩa với việc không nhất thiết BL dân
sự phải được lập thành văn bản (hợp đồng) riêng.
Hơn thế nữa, đây không phải là BL dịch vụ
thương mại nên không nhất thiết đặt ra vấn đề phí
giữa bên BL và bên nhận BL. Nói cách khác, đơn
thuần nó chỉ là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp
đồng dân sự.
- Thông thường, để phát hành chứng khoán ra
công chúng, tổ chức phát hành cần phải được
sự BL phát hành. Nếu số lượng phát hành
không lớn thì chỉ cần có một tổ chức BL phát
hành. Nếu đó là một công ty lớn và số lượng
chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của
một tổ chức BL thì cần phải có một tổ hợp BL
phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức
BL chính và một số tổ chức BL phát hành
thành viên. Các tổ chức BL phát hành được
hưởng một khoản phí BL nhất định trên số tiền
thu được từ đợt phát hành. Phí BL cao hay
thấp là tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát
hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn).
Đối với trái phiếu, phí BL phụ thuộc vào lãi
suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu thấp thì phí
BL phát hành cao và ngược lại). Trong khi đó,
BL theo quy định Luật Dân sự, không đặt ra
vấn đề về phí cao hay thấp mà chủ yếu là sự
thỏa thuận của các bên. Hơn nữa, BL trong
dân sự mang tính bảo đảm cao hay thấp còn
gắn liền với yếu tố nhân thân.
3. CHỦ THỂ THỰC HIỆN BẢO LÃNH
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 75 – 79 Part B: Political Sciences, Economics and Law
78
- Theo Luật Chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn thực hiện của Bộ Tài chính (2007)
thì “Tổ chức BL phát hành là công ty chứng
khoán được phép hoạt động BLPHCK và ngân
hàng thương mại được Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước chấp thuận BL phát hành trái phiếu
theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định”.
Xét thấy, hoạt động BLPHCK có bản chất là dịch
vụ thương mại nên chủ thể tiến hành hoạt động
này thường thỏa mãn một số điều kiện theo quy
định của pháp luật, cụ thể là CTCK và ngân hàng
thương mại được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
chấp thuận BL phát hành theo điều kiện do Bộ Tài
chính quy định. Việc quy định các điều kiện này
giúp cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tốt hơn đối
với hoạt động kinh doanh chứng khoán và thông
qua đó nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể
tham gia thị trường như các nhà đầu tư, các tổ
chức phát hành chứng khoán. Vì vậy, BLPHCK
phải có giấy phép thành lập và hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Và có người đại diện hợp
pháp đủ năng lực và thẩm quyền để xác lập giao
dịch BLPHCK. Ngoài điều kiện có tính chất
nguyên tắc này, Khoản 2 Điều 60 Luật Chứng
khoán năm 2006 còn quy định CTCK chỉ được
phép thực hiện nghiệp vụ BL phát hành khi thực
hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Quy định
này có thể xem như là điều kiện bắt buộc, dù là
không chính thức, đối với chủ thể muốn tiến hành
nghiệp vụ BLPHCK trên TTCK.
- Theo quy định tại khoản 14 Điều 6 Luật
Chứng khoán năm 2006 thì đơn vị thực hiện
BLPHCK chỉ có hai đơn vị là CTCK và ngân
hàng thương mại. Như vậy, đơn vị thực hiện
BL ở lĩnh vực chứng khoán là hẹp hơn so với
BL dân sự hay thương mại. Hơn thế nữa, pháp
luật về chứng khoán cũng quy định điều kiện
BL đối với đơn vị nhận BL, cụ thể như sau:
Đối với CTCK: Chỉ được phép thực hiện nghiệp
vụ BLPHCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh
chứng khoán, vốn pháp định để thực hiện nghiệp
vụ tự doanh chứng khoán là 100 tỷ Việt Nam
đồng, nghiệp vụ BLPHCK là 156 tỷ Việt Nam
đồng. CTCK không vi phạm pháp luật chứng
khoán trong 6 tháng liên tục liền trước thời điểm
BL. Và có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh
trên 6% trong 3 tháng liền trước thời điểm nhận
BLPHCK. Đặc biệt, tổng giá trị BLPHCK không
được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ chức
BLPHCK vào thời điểm cuối quý gần nhất tính
đến ngày ký hợp đồng BLPHCK, trừ trường hợp
BLPH cổ phiếu, trái phiếu được Chính phủ BL.
Đối với ngân hàng thương mại: Chỉ được BLPH
trái phiếu, không được BLPH cổ phiếu, chứng chỉ
quỹ đầu tư. Đây là điểm khác biệt so với CTCK.
Hơn thể nữa, ngân hàng thương mại muốn thực
hiện BLPH trái phiếu với số lượng tối đa bao
nhiêu và tổng số tiền (được tính trên cơ sở số
lượng trái phiếu) phải được Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước cho phép khi hội đủ các điều kiện theo
quy định của Bộ Tài chính.
- Hơn thế nữa, các trường hợp BLPHCK chưa
niêm yết, nhất là BLPH trong các đợt IPO (lần
đầu phát hành chứng khoán ra công chúng) có
thể gặp rủi ro hơn. Bởi thực tế, các doanh
nghiệp mong muốn bán hết cổ phần nhưng họ
không biết làm thế nào bán hết được. Trong
khi đó, hầu như các CTCK không đứng ra thực
hiện BL. Bởi lẽ, họ không chỉ lo ngại các
chứng khoán không đủ sức hấp dẫn thu hút
nhà đầu tư mà còn không có nhiều vốn để BL
trong các đợt phát hành này (Trang Ninh,
2015). Tuy nhiên, các CTCK có thể sử dụng
phương thức liên kết BL, trong đó một thành
viên trong nhóm là ngân hàng thương mại,
nguồn vốn lớn của ngân hàng sẽ đảm bảo việc
BL sẽ thành công. Nhưng các ngân hàng lại
không mặn mà triển khai, đặc biệt là từ ngày
01/2/2015 khi Thông tư số 36/2014/TT–
NHNN của Ngân hàng nhà nước về giới hạn
đầu tư cổ phiếu của các ngân hàng thương mại
đã có hiệu lực. Điều này đã làm cho TTCK
không còn sôi động, hấp dẫn, hạn chế IPO của
một số CTCK.
Có thể nói, Luật Chứng khoán đặt ra yêu cầu đối
với chủ thể BLPHCK nghiêm khắc hơn, nhiều
Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 75 – 79 Part B: Political Sciences, Economics and Law
79
điều kiện hơn so với Luật Dân sự. Và tất nhiên
chủ thể BL ở đây phải là tổ chức chứ không thể là
cả tổ chức lẫn cá nhân như trong Luật Dân sự.
Song, theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu
thì cần mở rộng đơn vị thực hiện BLPHCK, có thể
bổ sung thêm chủ thể thực hiện BLPHCK là cá
nhân hành nghề bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Ngoài ra, nên bổ sung thêm các hình thức BL như
BL tất cả hoặc không hoặc là BL cố gắng tối đa,
BL cố gắng tối thiểu, BL theo phương thức dự
phòng để phù hợp với một số nước trên thế giới
cũng như phù hợp thông lệ quốc tế.
Thông qua việc tìm hiểu khái niệm BLPHCK, so
sánh một số điểm khác biệt với Luật Dân sự, thiết
nghĩ, thực chất khái niệm BLPHCK theo quy định
Luật Chứng khoán không trái với quy định của
luật chung là dân luật, nó phù hợp với đặc trưng
của TTCK. Tuy nhiên, cần xem xét ở nhiều khía
cạnh khác nhau để có thể “mở rộng” khái niệm
BLPHCK. Và vấn đề đặt ra khi nghiên cứu
BLPHCK là cần xem xét một số nội dung về đặc
trưng cơ bản của BLPHCK, hợp đồng dịch vụ
BLPHCK cũng như chủ thể thực hiện BLPHCK
được quy định ở khái niệm BLPHCK theo Luật
Chứng khoán hiện hành. Hơn thế nữa, nghiên cứu
này phần nào góp phần vào việc hoàn thiện “khái
niệm bảo lãnh” và một số quy định có liên quan
đến BL ở văn bản hướng dẫn thi hành BLDS dự
thảo 2015. Vì hiện nay, về cơ bản dự thảo 2015 có
nhiều điểm mới đáng kể song chưa tập trung sửa
đổi nhiều về vấn đề BL.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài chính. (2007). Luật Chứng khoán và các văn
bản hướng dẫn thực hiện. Hà Nội: Nhà xuất bản
Tài chính.
Hoàng Thế Liên. (2009). Bình luận khoa học Bộ
Luật Dân sự năm 2005, tập II, phần thứ ba:
Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Phạm Thị Giang Thu. (2008). Giáo trình Luật Chứng
khoán. Trường Đại học luật Hà Nội.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. (2005). Bộ Luật Dân sự năm 2005. Nhà
xuât bản Chính trị Quốc gia.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. (2006). Luật Chứng khoán năm 2006.
Nhà xuât bản Chính trị Quốc gia.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. (2010). Luật sửa đổi bổ sung một số
điều Luật chứng khoán năm 2006. Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia.
Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. (2015). Bộ luật Dân sự dự thảo năm
2015, có hiệu lực ngày 01/7/2017.
Trang Ninh. (2015). Bàn về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
của người khác. Tạp chí Luật học, số 3, trang 17.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_khai_niem_bao_lanh_phat_hanh_chung_khoan.pdf