Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, vấn đề “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới, phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”(1) là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Giải quyết vấn đề này trong lĩnh vực đạo đức chính là làm hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với truyền thống và yêu cầu của thời đại.
Trong thời gian qua, những nghiên cứu đạo đức học về vấn đề này đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo đó, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới được nhìn nhận như một quá trình, một phương diện của sự nghiệp đổi mới, hiện đại hoá đất nước (chứ không phải được xác lập một cách áp đặt, nóng vội). Cũng như sự nghiệp đổi mới, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới là một quá trình tự giác, được chủ động và tích cực xây dựng trên cơ sở nhận thức tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đó trong điều kiện hiện nay. Tính quy luật chung nhất được nhiều công trình đề cập và phân tích là kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống kết hợp với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại trong xây dựng đạo đức nói chung, hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới nói riêng. Tính quy luật đó, đương nhiên, là định hướng có tính nguyên tắc cho sự xác lập hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Hơn thế, với sự định hướng đó, một số giá trị đạo đức truyền thống cần kế thừa, phát huy trong điều kiện hiện nay đã được phân tích, chẳng hạn: chủ nghĩa yêu nước; tính cần cù, tiết kiệm; tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, bao dung, Đồng thời, một số giá trị quốc tế, hiện đại cũng đã được xem xét như là những giá trị cần được tiếp thu để bổ sung cho hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, chẳng hạn: tính hiệu quả trong hoạt động; tinh thần thương mại; tính thực tế; tinh thần pháp luật,
48 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Triết học số 3 (190) năm 2007
VỀ TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ HÌNH THÀNH HỆ GIÁ TRỊ VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC MỚI
NGUYỄN VĂN PHÚC(*)
Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, vấn đề “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới, phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”(1) là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Giải quyết vấn đề này trong lĩnh vực đạo đức chính là làm hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với truyền thống và yêu cầu của thời đại.
Trong thời gian qua, những nghiên cứu đạo đức học về vấn đề này đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo đó, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới được nhìn nhận như một quá trình, một phương diện của sự nghiệp đổi mới, hiện đại hoá đất nước (chứ không phải được xác lập một cách áp đặt, nóng vội). Cũng như sự nghiệp đổi mới, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới là một quá trình tự giác, được chủ động và tích cực xây dựng trên cơ sở nhận thức tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đó trong điều kiện hiện nay. Tính quy luật chung nhất được nhiều công trình đề cập và phân tích là kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống kết hợp với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại trong xây dựng đạo đức nói chung, hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới nói riêng. Tính quy luật đó, đương nhiên, là định hướng có tính nguyên tắc cho sự xác lập hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Hơn thế, với sự định hướng đó, một số giá trị đạo đức truyền thống cần kế thừa, phát huy trong điều kiện hiện nay đã được phân tích, chẳng hạn: chủ nghĩa yêu nước; tính cần cù, tiết kiệm; tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, bao dung,… Đồng thời, một số giá trị quốc tế, hiện đại cũng đã được xem xét như là những giá trị cần được tiếp thu để bổ sung cho hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, chẳng hạn: tính hiệu quả trong hoạt động; tinh thần thương mại; tính thực tế; tinh thần pháp luật,…
Tuy vậy, chỉ với sự xác định nguyên tắc chung và những phân tích cụ thể cho một số trường hợp cụ thể, riêng biệt, thì sự phong phú của những tính quy luật trong sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới chưa được xem xét đầy đủ. Vì thế, cần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu một cách toàn diện những tính quy luật của quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Hơn thế, việc nghiên cứu cần được thực hiện cả về mặt xác định nội dung, cả về mặt đề xuất giải pháp cho sự hình thành, hoàn thiện hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới
Theo chúng tôi, cần nhìn nhận sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới trong mối liên hệ và tính quy định của những nhân tố tiêu biểu, đặc trưng cho quá trình đổi mới, quá trình hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. Sự phân tích những mối liên hệ, tính quy định đó sẽ làm bộc lộ những tính quy luật căn bản chi phối quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Trên cơ sở đó, những nghiên cứu ở các cấp độ cụ thể hơn sẽ được liên kết lại như là những yếu tố, những công đoạn của một cách tiếp cận đầy đủ và nhất quán.
Có thể thấy, sự nghiệp hiện đại hoá đất nước đang diễn ra dưới tác động của nhiều nhân tố; nhưng có ba nhân tố cơ bản nhất đang tác động, quy định chiều hướng vận động, biến đổi xã hội nói chung, các giá trị và chuẩn mực đạo đức nói riêng là kinh tế thị trường, tiến bộ công nghệ, hội nhập và giao lưu văn hoá. Ngày nay, không thể nói đến phát triển, hiện đại hoá xã hội nếu không thực hiện kinh tế thị trường; không đẩy nhanh những nghiên cứu và áp dụng các thành tựu công nghệ trong sản xuất cũng như trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không mở cửa giao lưu, hội nhập quốc tế. Sự thực hiện các quá trình này tất dẫn đến những biến đổi đạo đức thích ứng và đáp ứng yêu cầu của chúng.
Việc phân tích những yêu cầu của kinh tế thị trường trong mối liên hệ với đạo đức sẽ cho thấy những hạn chế, những bất cập về mặt giá trị của đạo đức truyền thống. Chẳng hạn, dưới tác động của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, kinh tế thị trường đòi hỏi tính tích cực năng động, tính thực tế, tính hiệu quả của hoạt động người. Bởi vậy, việc coi nhẹ các giá trị vật chất, coi trọng động cơ và coi nhẹ hiệu quả của hoạt động, tính duy cảm, thiếu nguyên tắc trong giải quyết các quan hệ xã hội,…với tư cách là các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống trở nên bất cập trong điều kiện hiện nay. Chúng cần được khắc phục trong sự xác lập nội dung của hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Đồng thời, những yêu cầu của kinh tế thị trường lại đòi hỏi con người phải coi trọng cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần, cả giá trị cá nhân lẫn giá trị xã hội; đòi hỏi những ứng xử đạo đức được thực hiện bởi những chủ thể có sự phát triển nhân cách độc lập, có ý thức về sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ công dân. Chính những đòi hỏi mang tính quy luật đó của kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu bổ sung vào hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội những giá trị và chuẩn mực mới.
Sự vận hành của kinh tế thị trường đòi hỏi và tạo điều kiện cho việc thúc đẩy những nghiên cứu sáng tạo, chuyển giao, áp dụng công nghệ trong sản xuất và trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Công nghệ, như cách hiểu hiện nay, không chỉ là các phương tiện vật chất, thiết bị kỹ thuật và gắn liền với chúng là phương thức, quy trình vận hành, mà còn bao hàm những yêu cầu tương ứng về tổ chức, thiết chế quản lý, điều phối, tiếp thị và sau cùng là con người với kỹ năng, năng lực vận hành công nghệ. Tất cả những thành tố của công nghệ, bằng cách này, cách khác đều đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí của con người. Lý trí, sự hiểu biết không chỉ là điều kiện cho hoạt động vận hành công nghệ, mà sự phát triển của nó còn tạo ra cơ sở tâm lý thuận lợi cho sự phát triển đạo đức nói chung, quan niệm về giá trị đạo đức nói riêng của con người. Sự phát triển của lý trí, hàm lượng tri thức được thể hiện trong lao động, sản xuất và các hoạt động xã hội trở thành một trong những thước đo giá trị nhân cách trong điều kiện hiện đại. Trong trường hợp này, tiến bộ công nghệ vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho sự kế thừa truyền thống đạo đức hiếu học; lại vừa đòi hỏi đổi mới và nâng cấp truyền thống đó. Điều đó có nghĩa là, trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, hiếu học với tư cách giá trị đạo đức phải có một vị trí thích đáng; đồng thời, hiếu học không chỉ là học cách làm người (như nội dung chủ yếu của hiếu học truyền thống), mà còn là học cách làm việc, tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, kinh tế tri thức.
Giao lưu văn hoá trong điều kiện hiện nay diễn ra dưới tác động mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông hiện đại và các thiết chế của quá trình toàn cầu hoá. Chính vì vậy, nó tạo ra điều kiện rất thuận lợi cho việc xác nhận và đánh giá lại các chân giá trị của đạo đức truyền thống. Chẳng hạn, nó xác nhận giá trị của chủ nghĩa yêu nước, đồng thời đòi hỏi phải đổi mới và nâng cấp chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện hiện đại. Cùng với điều đó, giao lưu văn hoá hiện nay đẩy nhanh sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, các nền văn hoá, giúp khắc phục sự biệt lập và tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các giá trị, các nền văn hoá. Trong bối cảnh đó, giao lưu văn hoá sẽ thúc đẩy việc tiếp nhận những giá trị mới, làm phong phú và tăng cường sức sống cho hệ giá trị và chuẩn mức đạo đức của xã hội. Điều đó cũng có nghĩa rằng, chủ động và tích cực gia nhập vào quá trình giao lưu văn hoá là yêu cầu có tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới trong điều kiện hiện nay.
Tuy vậy, mối liên hệ giữa các nhân tố cơ bản của quá trình hiện đại hoá với sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức không chỉ biểu hiện theo chiều thuận, mà còn biểu hiện theo chiều nghịch. Nói cụ thể hơn, kinh tế thị trường, tiến bộ công nghệ và giao lưu văn hoá không chỉ đòi hỏi và tạo kiện cho sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, mà còn tác động tiêu cực đến chính quá trình này. Vì thế, yêu cầu về mặt lý luận của những nghiên cứu đạo đức là xác định và phân tích tác động tiêu cực cùng những biểu hiện của tác động tiêu cực đó.
Kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cạnh tranh dựa trên sự thừa nhận và khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên đó là lợi ích cá nhân chính đáng). Đồng thời, kinh tế thị trường cũng giả định một nền pháp chế tương ứng để đảm bảo cho nó vận hành một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, chủ thể của các hoạt động, các quan hệ thị trường là con người kinh tế; mà con người kinh tế thì cứ có lợi ích là nó hoạt động. Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường có cội nguồn sâu xa từ đây. Chủ nghĩa cá nhân với tư cách một giá trị, một định hướng sống không duy nhất là sản phẩm của kinh tế thị trường, nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, với việc khuyến khích lợi ích cá nhân, nó thực sự có điều kiện để phát triển. Để khắc phục nghịch lý này, vấn đề đặt ra sẽ là giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chỉ có thể được thực hiện triệt để thông qua sự kết hợp các giải pháp về luật pháp, chính sách kinh tế với các giải pháp về giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Như vậy, chính những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường đã đặt ra vấn đề xác định và kết hợp các giải pháp nhằm khắc phục chủ nghĩa cá nhân, đảm bảo cho các giá trị cộng đồng của đạo đức truyền thống được kế thừa, có vị trí thích đáng bên cạnh các giá trị cá nhân trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Tiến bộ công nghệ trong khi tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí, trí tuệ, nghĩa là tạo cơ sở tâm lý thuận lợi cho đạo đức và phát triển năng lực thực hiện sự định hướng giá trị đạo đức, cũng đồng thời tạo ra sự phát triển thiên lệch của lý trí trong cấu trúc nhân cách con người. Điều đó cản trở sự phát triển tình cảm, một trong những cơ sở tâm lý của đạo đức. Sự suy giảm mối quan tâm giữa con người với con người, tính ích kỷ như là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức hiện nay không chỉ có mối liên hệ với cơ chế thị trường, mà còn bị quy định bởi chính sự đề cao về mặt giá trị, sự lấn át trong thực tế của yếu tố lý trí, trí tuệ so với yếu tố tình cảm trong cấu trúc nhân cách con người. Chính điều đó là một trong những tác nhân dẫn tới những nghịch lý của thời đại ngày nay trong sự lựa chọn giá trị. Về những nghịch lý trong xã hội hiện đại, một tác giả vô danh trên Internet đã nhận xét: “Chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng tính cách lại nhỏ hơn, những đường cao tốc dài rộng hơn nhưng quan điểm hẹp hòi hơn, mua nhiều hơn mà vẫn thấy có ít hơn, có căn nhà to hơn nhưng gia đình lại nhỏ đi, cuộc sống kéo dài hơn nhưng lúc nào cũng không có thời gian, kiến thức nhiều hơn nhưng đầu óc lại cực đoan, y tế tốt hơn nhưng lại lắm đại dịch, tăng số của cải nhưng giá trị của mình lại giảm xuống, đi lên đến tận mặt trăng nhưng ngại gặp hàng xóm bên kia đường, thích hoạt động cộng đồng nhưng lại quên đi người thân đang ốm”. Đó là biểu hiện của tính ích kỷ, của sự vô cảm về mặt xã hội của con người trong điều kiện trí tuệ được đẩy lên đến mức che lấp, lấn át tình cảm. Con người chỉ biết khẳng định, chiếm lĩnh mà quên đi sự quan tâm, đồng cảm, chia sẻ cho nhau.
Như vậy, việc giáo dục tình cảm đạo đức, giáo dục nghĩa vụ, lương tâm là điều không thể thiếu được trong điều kiện hiện nay. Trên bình diện giá trị, lòng nhân ái, sự bao dung, tính quan tâm tới người khác với tư cách là giá trị đạo đức truyền thống cần được kế thừa và có vị trí thích đáng trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Một trong những yêu cầu của sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường và tiến bộ công nghệ là sự quy cách hoá, chuẩn hoá các yếu tố của công nghệ, của sản xuất và sản phẩm. Quá trình này được phản ánh về mặt văn hoá thành sự đồng nhất hoá các giá trị, các chuẩn mực của lối sống, hành vi, cách ứng xử về mặt đạo đức giữa người và người. Đây là một trong những nguyên nhân của xu hướng đơn điệu hoá (mà biểu hiện cực đoan nhất là sự bắt chước) về mặt văn hoá, đạo đức; đồng thời dẫn đến xu thế xem nhẹ, lãng quên các giá trị đạo đức truyền thống ở các xã hội đang đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá hiện nay. Cùng với điều đó, sự gia tăng tốc độ của việc áp dụng, thay thế các công nghệ là yêu cầu có tính quy luật của hiện đại hoá. Sự thay thế nhanh chóng các giá trị công nghệ khi được chuyển dịch sang lĩnh vực văn hoá sẽ dẫn đến thái độ hư vô chủ nghĩa đối với những giá trị, những chuẩn mực tinh thần, đạo đức truyền thống, dẫn đến tâm trạng bất an về mặt xã hội, cản trở sự xác lập hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Khắc phục chủ nghĩa hư vô, khẳng định sự trường tồn của các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống bằng cách đổi mới nội dung, nâng cấp chúng trên tinh thần những đòi hỏi của điều kiện mới cũng là một trong những tính quy luật của việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Giao lưu văn hoá, bên cạnh những tác động tích cực, cũng tạo ra những trở ngại nhất định cho sự hình thành các giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Biểu hiện nổi bật của trở ngại này là sự ngộ nhận giá trị. Sự ngộ nhận giá trị vừa có nguyên nhân kinh tế, công nghệ, vừa có nguyên nhân chính trị. Mức sống cao cùng những tiện nghi sinh hoạt và cả sự tuyên truyền không thiện ý đã làm cho một bộ phận không nhỏ dân chúng trong các nước mới bước vào quá trình hiện đại hoá lầm tưởng tất cả những gì được đưa đến từ phía các nước phát triển đều là giá trị. Các hình thức sản phẩm văn hoá đa dạng, mạng Internet toàn cầu là thành tựu về mặt công nghệ, là phương tiện hùng mạnh của giao lưu văn hoá. Nhưng bên cạnh những lợi ích hiển nhiên, chúng còn tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc giữ gìn các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc phương Đông. Khắc phục tác động tiêu cực từ mặt trái của giao lưu văn hoá cũng là một trong những tính quy luật và do đó, là một trong những yêu cầu của việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới hiện nay.
Như vậy, những nhân tố cơ bản của hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá đều tác động có tính hai mặt đối với sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Những tác động đó mang tính quy luật, quy định nội dung và vị trí của các giá trị, chuẩn mực trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội. Đồng thời, chúng cũng đòi hỏi tính chủ động, tích cực trong việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Điều đó có nghĩa là, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức trong điều kiện hiện nay vừa bao hàm phương diện “xây”, vừa bao hàm phương diện “chống”; vừa xác lập thông qua kế thừa, phát huy giá trị truyền thống, tiếp nhận cái mới, vừa khắc phục, vượt qua những phản giá trị, những cái đã lỗi thời, bất cập trong truyền thống, hoặc nẩy sinh trong quá trình hội nhập, giao lưu, hiện đại hoá đất nước.
Cố nhiên, sự phân tích trên đây mới chỉ là sơ bộ và mang tính phương pháp luận. Sự nghiệp xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới đòi hỏi đẩy mạnh hơn nữa việc phân tích một cách đầy đủ và toàn diện những mối liên hệ, tính quy định của các nhân tố kinh tế, xã hội với tư cách là những tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Đạo đức học – Mỹ học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.
NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG Ở VIỆT NAMTHÀNH QUẢ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
PHẠM VĂN ĐỨC (*)
Năm 2000, Viện Triết học đã thực hiện đề tài cấp bộ Nhìn lại 55 năm nghiên cứu triết học ở Việt Nam: một số vấn đề chủ yếu. Có thể nói, đề tài đó đã tổng kết một các khá đầy đủ những kết quả mà giới triết học Việt Nam đã thu được trong hơn nửa thế kỷ qua, đồng thời nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới. Riêng trong phần chủ nghĩa duy vật biện chứng, các tác giả đã tập trung đánh giá lại những thành tựu đã đạt được trên các mặt như: nghiên cứu vấn đề vật chất và ý thức,nghiên cứu về phép biện chứng duy vật. Trong bài viết này, chúng tôi không trình bày lại một cách chi tiết những kết quả cụ thể, mà chỉ nêu lên một số nhận định khái quát; trên cơ sở đó, trình bày những vấn đề hiện đang đặt ra trong lĩnh vực nghiên cứu này.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học đã có những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu các quan niệm khác nhau về vật chất và ý thức, mối quan hệ vật chất - ý thức, nhất là quan niệm của triết học Mác - Lênin về các vấn đề này. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã tập trung làm sáng tỏ, phân tích quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về hai phạm trù cơ bản và rộng nhất của triết học cũng như mối quan hệ giữa chúng. Song, để có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tầm cỡ về vấn đề này và nhất là để có những nghiên cứu có giá trị làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo thực tiễn và nhận thức khoa học, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học cần có sự đầu tư công sức nhiều hơn nữa, đồng thời cần có sự hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học khác, đặc biệt là với các nhà khoa học tự nhiên.
Cũng như những vấn đề xung quanh các phạm trù vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng, trong hơn nửa thế kỷ qua, phép biện chứng duy vật đã được nghiên cứu khá toàn diện.
Trước hết, cần khẳng định rằng, trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định phép biện chứng duy vật như là "khoa học về mối liên hệ phổ biến" và là "khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy". Kế thừa và phát triển những tư tưởng đó, V.I.Lênin đã coi "phép biện chứng là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển".
Căn cứ vào những chỉ dẫn trên đây của các tác gia kinh điển, các nhà triết học mácxít ở Liên Xô đã phân chia phép biện chứng duy vật thành ba bộ phận chủ yếu, đó là: hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù. Ở Việt Nam, trong các giáo trình triết học, nội dung của phép biện chứng cũng được quan niệm tương tự như vậy. Ở đây, chúng ta không bàn đến tính hợp lý hay không hợp lý của quan niệm trên đây về nội dung của phép biện chứng, mà lấy đó làm căn cứ để xem xét những cái đã làm được và những cái cần tiếp tục làm trong thời gian tới.
Trong số hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển thì nguyên lý về sự phát triển được quan tâm nghiên cứu nhiều, mặc dù kết quả của sự nghiên cứu đó còn khiêm tốn.
Nếu như trước đây, ở Liên Xô, lý thuyết về sự phát triển được nghiên cứu một cách khá bài bản và trên nhiều khía cạnh thì ở Việt Nam, do những nguyên nhân khác nhau, nguyên lý về sự phát triển chỉ được triển khai trên ba hướng chủ yếu sau:
1. Theo hướng thứ nhất, một số tác giả tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan đến phạm trù phát triển, như vận động, tiến bộ, phát triển.
2. Theo hướng thứ hai, một số tác giả đã tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn gốc, động lực của sự phát triển, mà đặc biệt là của sự phát triển xã hội. Có thể nói, trong những năm vừa qua, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây, hướng nghiên cứu này đã được khai thác khá nhiều. Sở dĩ như vậy là vì, bắt đầu từ giữa những năm 80, khi bắt tay vào công cuộc đổi mới, chúng ta ngày càng nhận ra vai trò động lực đặc biệt của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, vấn đề được đặt ra là, làm thế nào khai thác được động lực ấy và sử dụng được nó một cách có hiệu quả để thúc đẩy quá trình vận động và phát triển xã hội.
3. Theo hướng thứ ba, một số tác giả đã nghiên cứu triết lý phát triển của Việt Nam. Từ năm 1997 đến năm 2000, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) đã có một chương trình nghiên cứu triết lý phát triển của Việt Nam. Các tác giả tham gia chương trình này đã tập trung nghiên cứu các vấn đề như: sự khác nhau giữa triết học và triết lý; quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về triết lý của sự phát triển, triết lý về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa cái kinh tế và cái xã hội, giữa nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại sinh.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu về động lực của sự phát triển, triết lý về sự phát triển trong những năm qua đã góp phần đáng kể vào việc cụ thể hoá nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật trong lĩnh vực xã hội.
Cùng với nguyên lý về sự phát triển, các quy luật cơ bản của phép biện chứng cũng đã được chú ý nghiên cứu một cách thích đáng hơn. Một số công trình nghiên cứu mang tính chất cơ bản và ứng dụng đã được công bố.
Trước hết, cần nói đến các nghiên cứu xung quanh phạm trù quy luật. Đây là phạm trù hết sức cơ bản của phép biện chứng duy vật. Phạm trù đó đã được các nhà triết học trong lịch sử bàn luận tương đối nhiều và tưởng như mọi thứ đã trở nên rõ ràng, không còn vấn đề gì phải tranh luận. Nhưng, đến năm 1986, khi Đảng ta nêu ra "Bài học về tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan" thì vấn đề nội dung của phạm trù quy luật lại bắt đầu được đặt trở lại. Bởi lẽ, để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan thì điều quan trọng trước tiên là cần phải hiểu thế nào là quy luật?
Trước yêu cầu đó, trong khoảng mươi năm gần đây, một số tác giả đã xem xét phạm trù quy luật dưới góc độ lịch sử, tập trung làm rõ các quan điểm khác nhau trong lịch sử triết học về quy luật; trên cơ sở đó, nêu lên những đặc trưng cơ bản nhất của phạm trù đó. Một số tác giả khác xem xét mối quan hệ giữa phạm trù quy luật với các phạm trù khác của phép biện chứng duy vật để từ đó, vạch ra sự tương đồng và khác biệt giữa phạm trù quy luật và các phạm trù khác của phép biện chứng duy vật. Ngoài ra, phạm trù quy luật còn được xem xét trong mối tương quan với phạm trù mâu thuẫn(1), v.v..
Trong số ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: quy luật mâu thuẫn (hay quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập), quy luật lượng chất và quy luật phủ định của phủ định thì trong những năm qua, quy luật mâu thuẫn được tập trung nghiên cứu nhiều hơn cả. Sở dĩ như vậy không phải chỉ vì quy luật mâu thuẫn là quy luật cơ bản nhất, hay nói như V.I.Lênin, là "hạt nhân" của phép biện chứng, mà chủ yếu là vì, trong những năm qua, nhiều vấn đề thực tiễn đã đặt ra một cách hết sức cấp bách và muốn giải quyết chúng buộc phải trở lại những vấn đề cơ bản có liên quan đến nội dung của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi nghiên cứu những mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta hiện nay, chúng ta buộc phải giải quyết những vấn đề hết sức cơ bản, như mâu thuẫn là gì, các loại mâu thuẫn, các cách thức giải quyết mâu thuẫn, v.v.. Có thể nói, trong những năm qua, nhiều đề tài, trong đó có cả đề tài cấp nhà nước, nhiều bài báo, một số cuốn sách chuyên khảo và luận án tiến sĩ đã giải quyết những vấn đề thực tiễn có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy luật mâu thuẫn.
Về các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật thì, kể từ năm 1986 đến nay, ngoài cặp phạm trù khả năng và hiện thực đã được nghiên cứu một cách tương đối chuyên sâu, các cặp phạm trù khác của phép biện chứng duy vật ít được nghiên cứu chuyên sâu hơn. Ngoài những bài báo, những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ bàn trực tiếp đến nội dung của một số cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật (2), hầu như không có một chuyên khảo nào bàn sâu đến một cặp phạm trù nào đó như cặp phạm trù khả năng và hiện thực mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Đây cũng là một mảnh đất trống nữa mà những người làm công tác nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng phải quan tâm. Thực tiễn xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề có liên quan đến nội dung của các phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần tập trung công sức nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói, các thành quả mà những người nghiên cứu triết học đạt được trong lĩnh vực chủ nghĩa duy vật biện chứng như đã trình bày ở trên là đáng kể. Những nghiên cứu đó đã góp phần truyền bá thế giới quan duy vật biện chứng, góp phần làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành cơ sở phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Đồng thời, các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong hơn nửa thế kỷ qua là tương đối đa dạng, đi sâu vào từng khía cạnh, từng quy luật hoặc một vấn đề cụ thể nào đó có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nếu trừu tượng hoá đi các nghiên cứu cụ thể, chúng ta có thể nhận thấy các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng đi theo hai hướng chủ yếu: 1. Theo hướngnghiên cứu cơ bản và 2. Theo hướng nghiên cứu ứng dụng, tức là đi vào những vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra nhưng có liên quan đến nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Theo hướng nghiên cứu cơ bản, những người làm công tác nghiên cứu triết học, một mặt, đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở đó, có sự điều chỉnh, chính xác hoá những cách hiểu khác nhau để từ đó, ngày càng có được cách hiểu chính xác hơn; mặt khác, nghiên cứu sâu về một vấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạp chí Triết học số 3 (190) năm 2007.doc