Tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, theo tác giả, ngoài những tiêu chí đã có, cần phải bổ sung thêm những tiêu chí mới nảy sinh và cùng với đó, cần phải hiểu quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giai cấp công nhân theo quan điểm lịch sử. Thêm vào đó, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam cần phải phân chia quá trình hình thành và phát triển của nó theo các thời kỳ lịch sử; đồng thời lựa chọn một khâu nào đó trong chuỗi dây xích những vấn đề cấp bách để tập trung giải quyết rồi từ đó, lần ra các mắt xích kề bên.
87 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Về cách tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Triết học số 11 (210) năm 2008
VỀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
DƯƠNG PHÚ HIỆP (*)
Tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, theo tác giả, ngoài những tiêu chí đã có, cần phải bổ sung thêm những tiêu chí mới nảy sinh và cùng với đó, cần phải hiểu quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giai cấp công nhân theo quan điểm lịch sử. Thêm vào đó, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam cần phải phân chia quá trình hình thành và phát triển của nó theo các thời kỳ lịch sử; đồng thời lựa chọn một khâu nào đó trong chuỗi dây xích những vấn đề cấp bách để tập trung giải quyết rồi từ đó, lần ra các mắt xích kề bên.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó. Do vậy, trước khi đề cập đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần bàn về cách tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Trong Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra bốn tiêu chí để đánh giá giai cấp: (1) Sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế - xã hội nhất định; (2) Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất; (3) Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý sản xuất; (4) Khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã hội. Vận dụng bốn tiêu chí nói trên để xác định một giai cấp là cần thiết.
Khi bàn về giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra hai tiêu chí: (1) Về nghề nghiệp, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp; (2) Về vị trí trong quan hệ sản xuất, giai cấp công nhân là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
Vận dụng những tiêu chí nói trên vào việc xác định giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là việc không hề dễ dàng, đơn giản. Trong thực tế, đang nảy sinh hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải giải quyết, như:
Thứ nhất, ngoài các tiêu chí về kinh tế - xã hội, có nên bổ sung thêm tiêu chí về chính trị nữa không khi định nghĩa giai cấp công nhân.
Thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen nói về các tiêu chí để xác định giai cấp công nhân là lúc chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển và tiến hành cách mạng công nghiệp; khi đó chưa có các nước xã hội chủ nghĩa, chưa có cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Do vậy, khi đó, hai ông chưa thể đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp công nhân trong chủ nghĩa xã hội. Từ đó đến nay, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi, vì vậy cần phải nghiên cứu, bổ sung vào định nghĩa về giai cấp công nhân những tiêu chí mới để định nghĩa về giai cấp công nhân hiện đại, về giai cấp công nhân trong chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng là, không thể đem những định nghĩa trước đây về giai cấp công nhân để nói về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Chúng ta không vứt bỏ khái niệm giai cấp công nhân, mà vẫn sử dụng nó nhưng với nội dụng mới.
Thứ ba, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về người công nhân trong quá trình phát triển, nào là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp lao động, lao động làm thuê; nào là công nhân nông nghiệp, công nhân công nghiệp, công nhân khai khoáng; nào là công nhân thủ công, công nhân công trường thủ công; công nhân hiện đại, công nhân quý tộc, vô sản lưu manh, v.v.. Hiện nay, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam, cần xác định rõ thuật ngữ nào là không còn thích hợp nữa, thuật ngữ nào vẫn có thể sử dụng nhưng phải bổ sung những nội dung mới, thuật ngữ nào vẫn giữ nguyên giá trị.
Xuất phát từ thực tế hiện nay và những chỉ dẫn của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể nói rằng, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là giai cấp những người lao động chân tay và trí óc hoạt động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ công nghiệp thuộc các loại hình: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Dù họ hoạt động trong bất kỳ thành phần kinh tế nào thì với tư cách người làm công ăn lương, họ cũng đều là chủ của đất nước, quyền lợi của họ được pháp luật nhà nước bảo vệ.
Ở đây, khi vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào việc nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam, việc tránh chủ nghĩa giáo điều là hết sức cần thiết. Điều đó có nghĩa là, không thể đem những quan điểm giai cấp của thời kỳ trước đây - thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp - vận dụng một cách máy móc vào thời kỳ đổi mới hiện nay, bởi tình hình đã thay đổi rất nhiều, khi chúng ta đã từ bỏ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ để chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân, hội nhập quốc tế. Do vậy, hiện nay, chúng ta xem xét giai cấp công nhân Việt Nam không phải trong hoàn cảnh đấu tranh giai cấp gay gắt, đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, mà trong hoàn cảnh đại đoàn kết dân tộc là động lực của sự phát triển, đảng viên cũng được làm kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế tư bản tư nhân).
Giai cấp công nhân Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhưng điều đáng chú ý ở đây là, mãi đến năm 2020, nước ta mới cơ bản trở thành nước công nghiệp; còn hiện nay, mặc dù đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam còn phải đấu tranh rất gian khổ để từng bước đạt các mục tiêu, như sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, biến nước ta thành một nước công nghiệp, tiến tới xây dựng một xã hội mà trong đó, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ở châu Âu, giai cấp công nhân bắt đầu hình thành cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản vào khoảng thế kỷ XVI, đặc biệt phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII khi cách mạng công nghiệp nổ ra. Còn ở Việt Nam, giai cấp công nhân ra đời vào đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác thuộc địa. Như vậy, ở nước ta, giai cấp công nhân ra đời trước giai cấp tư sản. Thế nhưng, do chủ nghĩa tư bản thực lợi Pháp, do đất nước phải trải qua những cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt và gian khổ, do những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ào ạt cả ở miền Bắc và miền Nam làm đảo lộn cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp, quá trình công nghiệp hoá diễn ra chậm chạp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm chạp. Tuy nhiên, trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, cùng với cả dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã phát huy được truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường và anh hùng. Đồng thời, giai cấp công nhân Việt Nam cũng phát huy tốt truyền thống đoàn kết giai cấp của mình, truyền thống đại đoàn kết dân tộc và có mối liên hệ tự nhiên, mật thiết với nông dân và các tầng lớp lao động khác, gắn bó chặt chẽ lợi ích của mình với lợi ích của dân tộc.
Khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam, chúng ta có thể phân chia quá trình hình thành và phát triển của giai cấp đó thành bốn thời kỳ sau đây:
- Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ bị thực dân Pháp cai trị.
- Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến.
- Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết.
- Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Mỗi thời kỳ nói trên đều có những đặc điểm riêng, nhưng để hiểu được giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta không thể không xem xét quá trình hình thành và phát triển của nó, cũng như những đặc điểm của nó ở các thời kỳ trước.
Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay đã khác rất nhiều so với các thời kỳ trước, đã có những biến đổi quan trọng cả về số lượng, chất lượng lẫn cơ cấu. Trong quá trình biến đổi đó, có một số vấn đề nổi lên đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, do các doanh nghiệp nhà nước giảm, nên số lượng công nhân trong khu vực này cũng giảm theo. Ngược lại, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể lại tăng mạnh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay, mặc dù có phát triển nhanh trong những năm gần đây, nhưng chủ yếu vẫn là những doanh nghiệp nhỏ, chỉ có một số rất ít sử dụng từ 500 đến 1000 công nhân.
Thứ hai, mặc dù đời sống của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã được cải thiện và khá hơn nhiều so với các thời kỳ trước, nhưng còn có quá nhiều khó khăn cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, cả về nhà ở lẫn việc làm. Năm 1995, tiền lương tối thiểu của người lao động đã được luật pháp hoá, nhưng mức lương tối thiểu đặt ra thấp, không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của người lao động và chậm được điều chỉnh, nên giá trị thực tế giảm dần. Tiền lương tối thiểu chung chưa trở thành lưới an toàn cho lao động làm công ăn lương. Đời sống của giai cấp công nhân khó khăn đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm và lòng tin của họ đối với chế độ, với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam không thể bỏ qua tình cảnh hiện nay của họ.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân. Do vậy, so với các thời kỳ trước, về mặt này, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì trình độ các mặt hiện nay của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được; còn nếu so sánh với trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân ở các nước phát triển thì hiện trạng của nước ta thật đáng lo ngại: tỷ lệ lao động có trình độ cao hiện còn rất thấp, lao động chưa qua đào tạo còn nhiều.
Khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, như đã trình bày ở trên, có hàng loạt vấn đề cấp bách đòi hỏi phải giải quyết. Đương nhiên, không thể đồng thời giải quyết cùng một lúc tất cả mọi vấn đề. Ở đây, nên lựa chọn một khâu nào đó trong dây xích này để tập trung giải quyết rồi từ đó, lần ra các mắt xích kề bên. Theo tôi, mắt xích đó chính là đào tạo nghề cho công nhân, bởi thất nghiệp, không có việc làm chủ yếu không phải do không có người thuê, mà do lao động không được đào tạo, hoặc đào tạo không đúng yêu cầu của thị trường. Nếu chúng ta biết căn cứ vào yêu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước để xây dựng một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực thích hợp thì công nhân sẽ có việc làm và do có việc làm, đời sống của họ sẽ được cải thiện và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ được đẩy nhanh. Đó cũng là từng bước thực hiện “trí thức hoá công nhân”.
Khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, chúng ta không thể không dự báo sự phát triển của nó gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với triển vọng thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta để định hướng cho sự phát triển giai cấp công nhân hiện đại. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang làm biến đổi sâu sắc, toàn diện các giai tầng xã hội, trong đó có giai cấp công nhân. Những máy móc, thiết bị do cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra đang làm thay đổi phương thức lao động và vị thế của người công nhân. Xu hướng nổi lên là lao động chân tay ngày càng giảm, lao động tri thức ngày càng tăng và ai cũng phải sử dụng máy vi tính nối mạng, lao động ở nhà, lao động tự do sẽ trở nên ngày càng phổ biến. Kinh tế tri thức hình thành làm cho tỷ trọng các ngành sản xuất vật chất suy giảm, tỷ trọng các ngành phi vật chất tăng lên. Tri thức trở thành nguồn lực kinh tế quan trọng hơn các yếu tố sản xuất truyền thống khác, như vốn, tài nguyên, lao động giản đơn. Lợi nhuận từ lao động giản đơn, đất đai, tư bản ngày càng giảm. Giai cấp công nhân hiện đại, tuy vẫn là người làm thuê, nhưng có đời sống khá, có trình độ khoa học và nghiệp vụ cao, phần lớn có trình độ đại học và cao đẳng, tỷ lệ “công nhân cổ trắng” ngày càng tăng, chiếm ưu thế so với tỷ lệ “công nhân cổ xanh”, đang hình thành tầng lớp trung lưu mới, trong đó phần lớn là “công nhân cổ trắng”. Tình hình đó gợi ý cho chúng ta, khi Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển và dần dần trở thành một nước phát triển thì dự báo giai cấp công nhân Việt Nam khi đó sẽ như thế nào. Mặc dù đó là vấn đề của tương lai, nhưng cần nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại ở các nước phát triển để dự báo triển vọng của giai cấp công nhân Việt Nam./.
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA PH.ĂNGGHEN TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY
NGÔ ĐÌNH XÂY(*)
Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn, mang tính khái quát quan niệm của Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể để từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó. Bài viết cũng đã chỉ ra và phân tích sự vận dụng phương pháp luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen là nhà phương pháp luận thiên tài. Song, người ta thường chỉ nghĩ đến ông đã cùng với C.Mác sáng tạo và xây dựng nên phép biện chứng duy vật với tư cách một khoa học có đầy đủ nguyên lý, quy luật và các phạm trù cấu thành như chúng ta đã và đang giảng dạy. Điều đó, theo chúng tôi, là đúng nhưng chưa đủ. Đọc, suy ngẫm và nghiên cứu kỹ cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của Ph.Ăngghen, chúng tôi thấy còn một điểm rất đặc sắc, mang tính ngầm định, riêng có, tạo nên nét độc đáo trong cách tiếp cận, phương pháp luận nghiên cứu của ông - đó là sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể, mặc dù ông chưa một lần tuyên bố về vấn đề này. Hơn nữa, tính đặc sắc của sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể không phải và không chỉ được thể hiện trong một số trường hợp, một số lĩnh vực nghiên cứu, mà là sự xuyên suốt, nhất quán và được tuân thủ triệt để ở tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, trong toàn bộ quá trình tìm kiếm chân lý của Ph.Ăngghen. Sự hiện diện và minh chứng rõ cho phương pháp luận nghiên cứu đặc sắc này của ông được và có thể được tiếp cận và lý giải như sau:
Thứ nhất, khi tiếp cận nghiên cứu về giới tự nhiên cũng như về toàn bộ thế giới khách quan, Ph.Ăngghen đã nhận thấy và phát hiện ra một trong những mối quan hệ rất phổ biến, bao quát, chi phối toàn thể thế giới hiện thực - đó chính là mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể. Cái tất yếu phải xảy ra khi có đủ điều kiện và đã chín muồi, thì nó phải xảy ra; song trong trường hợp này, quan hệ đó lại diễn ra thế này và trong trường hợp khác, quan hệ khác, điều kiện khác thì nó có thể diễn ra khác đi. Từ mối quan hệ có tính phổ biến này, Ph.Ăngghen đã đi đến khái quát và duy danh định nghĩa thành cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Tất nhiên là cái tất yếu tuân theo quy luật “thép”, không thể khác được. Còn cái ngẫu nhiên là cái tất yếu nhưng bị biến tướng đi, có thể biểu hiện khác, mang sắc thái khác trong những điều kiện, môi trường khác, nghĩa là tồn tại dưới hình thức cái có thể. Như vậy, rõ ràng là, mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể đã hiện diện và được bao chứa trong hiện thực khách quan.
Thứ hai, trong toàn bộ sự vận động của tiến trình lịch sử nhân loại, loài người tất yếu phải đi lên, phải phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, nghĩa là con người phải tất yếu bước từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Cái vương quốc của tất yếu ở đây được hiểu như là những bước quá độ của các nấc thang mông muội, dã man và văn minh mà chính Ph.Ăngghen đã đề cập, phân tích trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước. Còn vương quốc tự do chính là xã hội công bằng, tươi đẹp - xã hội cộng sản tương lai mà loài người đang vươn tới. Do sự phát triển thường xuyên, liên tục của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, do ý thức tự vươn lên ngày càng sâu sắc hơn của loài người mà nhân loại sẽ tất yếu bước từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do. Song, do những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, thể chế chính trị - pháp luật khác nhau, truyền thống tâm lý, văn hoá và lối sống khác nhau, do độ chín muồi về trạng thái tư tưởng và nhận thức khác nhau mà ở dân tộc này, dân tộc khác có thể bỏ qua một hay nhiều bước quá độ nào đó trong số những bước đi chung mà nhân loại tất yếu phải trải qua. Nói cách khác, nhân loại tất yếu cùng đi đến một đích, song đến đích đó như thế nào và bằng cách nào thì lại là sự có thể. Như vậy, sự thống nhất của cái tất yếu và cái có thể đã được đan xen, chuyển hoá và quện chặt trong sự vận động của lịch sử nhân loại và do đó, làm cho hình thức phát triển xã hội của loài người trở nên đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ và mang nhiều sắc thái khác nhau.
Thứ ba, trong phương pháp luận tổng kết thực tiễn cách mạng của Ph.Ăngghen luôn có sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể. Nghiên cứu sự vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác cũng như Ph.Ăngghen đã thấy rằng, xã hội luôn vận động, phát triển và do vậy, đến một lúc nào đó, loài người sẽ đạt tới một trình độ hoàn thiện hơn, cao hơn, tốt đẹp hơn so với trạng thái xã hội hiện có. Theo lôgíc không thể bàn cãi đó, xã hội cộng sản chủ nghĩa - một xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn, hoàn chỉnh hơn xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ ra đời. Điều đó cũng có nghĩa là cách mạng vô sản sẽ diễn ra, khả năng phát triển của xã hội loài người lên chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, bởi nó tuân theo quy luật “thép” của lịch sử và bản thân nó là một quá trình lịch sử - tự nhiên trong sự vận động của xã hội loài người. Đó là sự tất yếu.
Song, cách mạng vô sản nổ ra bao giờ, ở đâu, với hình thức ra sao, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào thì lại phụ thuộc vào những nhân tố khách quan và chủ quan của lịch sử. Điều đó có nghĩa là sự phát triển tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở một nước nào đó, ở một tình thế, một trạng thái nào đó không phải đã được quy định trước, không phải khuôn mẫu đã được định sẵn, mà có thể diễn ra thế này hoặc thế khác, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, nghĩa là chỉ là sự có thể. Chính vì tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận này mà C.Mác cũng như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Sự phát triển của xã hội loài người lên chủ nghĩa cộng sản là tất yếu; song nó là sự phát triển trực tiếp (từ chủ nghĩa tư bản lên), hay nó là sự phát triển gián tiếp (từ trạng thái tiền tư bản lên) thì đó chỉ là những khả năng, những sự có thể mang tính tất yếu trong tiến trình vận động của lịch sử. Và, cũng chính tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận này mà Ph.Ăngghen đã rút ra những khả năng phát triển khác nhau của cùng một cuộc cách mạng - cách mạng vô sản.
Thứ tư, trong quan niệm về tự do, Ph.Ăngghen cũng đã áp dụng phương pháp luận của cái tất yếu và cái có thể để giải quyết khá hay, khá chặt chẽ và khá độc đáo về vấn đề này. Theo Ph.Ăngghen, tự do có thể là cái tất yếu, song cũng có thể là cái có thể. Tự do là cái tất yếu, hợp quy luật, nghĩa là tự do thật sự theo đúng nghĩa của nó, khi và chỉ khi người ta nhận thức được cái tất yếu (quy luật) và hành động theo cái tất yếu đó. Còn nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì tự do chỉ là cái khả năng, là cái có thể và người ta chỉ được hưởng tự do trong tiềm năng mà thôi. Chính từ đây, Ph.Ăngghen đã triệt để phê phán quan điểm có tính chất duy tâm, tự biện của Đuyrinh về tự do và tất yếu, khi Đuyrinh coi tự do là cái trung bình giữa phán đoán và bản năng, giữa cái hợp lý và cái phi lý. Trên cơ sở sự phê phán này, Ph.Ăngghen đã trình bày và khẳng định rất rõ ràng rằng, tự do là tất yếu đã được nhận thức. Tự do có nghĩa là đã nhận được và hành động tuân theo các quy luật của hiện thực khách quan(1). Ở đây, Ph.Ăngghen đã dùng phương pháp luận của cái tất yếu và cái có thể để trực tiếp phê phán Đuyrinh và gián tiếp phê phán tất cả những người nào chỉ muốn coi tự do là cái có thể, nghĩa là đã là tự do thì có thể làm được tất cả, bất chấp tất cả, hành động hoàn toàn tuỳ theo ý muốn chủ quan.
Qua đây, Ph.Ăngghen cũng phê phán những hành động tuỳ tiện, bất chấp quy luật khách quan của con người. Thêm vào đó, ông còn muốn cảnh báo rằng, sự tuỳ tiện, sự bất chấp quy luật (tức chỉ là sự có thể) trong hành động của con người thì chính con người sẽ bị cái tất yếu (quy luật) trừng phạt. Cái giá mà con người phải trả cho sự tuỳ tiện, bất chấp quy luật là vô giá. Sự cảnh báo này có ý nghĩa rất thiết thực trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trong điều kiện hiện nay.
Thứ năm, điều rất đáng nhấn mạnh ở đây là, trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu của mình, Ph.Ăngghen đã dùng phương pháp luận của cái tất yếu và cái có thể để đi đến kết luận mang tính khoa học cao, tính biện chứng sâu sắc, tính cách mạng triệt để về chính học thuyết Mác. Theo Ph.Ăngghen, học thuyết của C.Mác (và cũng là của ông) bao giờ và ở đâu cũng là sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể; đó là đặc tính nội tại, tất yếu của chính học thuyết đó. Với tư cách là con đẻ của nền đại công nghiệp, là đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ trong tương lai và hơn thế nữa, khi tồn tại, bước lên vũ đài lịch sử chính trị là chính mình thì giai cấp công nhân tất yếu phải tìm, đưa ra và xây dựng được một học thuyết khoa học riêng, một tuyên ngôn riêng mà thông qua đó, giai cấp công nhân tuyên bố công khai về vai trò lịch sử của chính mình và cũng qua học thuyết đó để giai cấp công nhân thiết kế và định hướng được một mô hình phát triển xã hội đối với nhân loại trong tương lai. Đó là sự tất yếu và do vậy, học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen là một kết quả tất yếu trong sự vận động của lịch sử tư duy nhân loại. Song, học thuyết đó như thế nào là hoàn chỉnh, nó được cấu thành ra sao thì đó lại là cái có thể. Chính vì vậy mà Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận: “Toàn bộ thế giới quan [Auffassu - ngsweise] của C.Mác không phải là một học thuyết, mà là một phương pháp. Nó không đem lại những giáo điều có sẵn, mà đem lại những điểm xuất phát cho việc tiếp tục nghiên cứu và phương pháp cho sự nghiên cứu đó"(2). Như vậy, theo Ph.Ăngghen, học thuyết Mác chỉ là phương pháp, hay nói chính xác hơn chỉ là phương pháp luận biện chứng và cái phương pháp luận biện chứng ở đây là cái tất yếu soi đường, định hướng, là cái làm cơ sở, nền tảng, là điểm tựa để nhìn nhận đánh giá mọi sự vật, hiện tượng cho tất cả những ai chấp nhận và tuân theo học thuyết đó. Còn nội dung bao chứa trong nó và sự biểu hiện ra của học thuyết đó chỉ là cái là cái có thể, dĩ nhiên là cái có thể mang tính tất yếu và dựa trên tính tất yếu. Và, vì nó là cái có thể, nên nó là hệ mở, nó có thể và cần phải được mở rộng, điều chỉnh, bổ sung, phát triển thêm. Đây là chỉ dẫn cực kỳ quan trọng, mang tính kinh điển và là phương pháp luận, là cơ sở để những người mácxít chân chính sau này phải có nhiệm vụ bổ sung thêm, phát triển và hoàn chỉnh học thuyết Mác, nếu như họ, theo cách nói của V.I.Lê-nin, “không muốn lạc hậu so với cuộc sống”.
II
1. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra và thực thi một nguyên lý phương pháp luận nổi tiếng cho hoạt động của cá nhân cũng như cho cả dân tộc: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Cái bất biến ở đây chính là độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc. Điều giản dị nhưng thiêng liêng ấy là sự thôi thúc sống còn của tất cả mọi người dân, là sự hun đúc, đòi hỏi của sức mạnh nội sinh, yêu cầu trường tồn của dân tộc, là tính tất yếu của truyền thống bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và như vậy, theo nghĩa đó, cái bất biến ấy chính là cái tất yếu, là cái quy định tất thảy mọi hoạt động của mỗi công dân, là mẫu số chung cho thước đo chân giá trị của con người Việt Nam. Chính vì thế, sau này, Hồ Chí Minh đã khái quát và đúc rút thành một chân lý rất cụ thể, trở thành lẽ sống cho dân tộc Việt Nam: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Còncái vạn biến là những sắc thái hành động biến hoá, những ứng biến, đối phó linh hoạt, những sách lược mềm dẻo, những phương thức thực thi khôn khéo với những thể hiện và diễn biến rất đa dạng, muôn màu, muôn vẻ trong hoạt động đấu tranh thực tế. Song, tính đa dạng và muôn màu, muôn vẻ này phải hiển nhiên và buộc phải được dựa trên, phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải phục vụ cái tất yếu - độc lập nói trên. Như vậy, để đạt được cái tất yếu - độc lập cho dân tộc thì được phép đưa ra nhiều sách lược khác nhau, sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, thực thi nhiều phưong thức hoạt động khác nhau và do đó, cho phép sự có thể trong sách lược và phương thức hành động thực tế. Rõ ràng là, ở đây, cái tất yếu được thể hiện ra làcái có thể. Với phương châm đó, theo Hồ Chí Minh, phải có sự thống nhất, sự nhất quán giữa cái tất yếu và cái có thể khi suy nghĩ, hành động và phục vụ dân tộc. Như vậy là, một cách vô tình hay hữu ý, Hồ Chí Minh đã gặp Ph.Ăngghen, hai tư tưởng lớn đã gặp nhau. Và, tuân thủ theo tinh thần, theo phươn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạp chí Triết học số 11 (210) năm 2008.doc