Trong bài viết này, học thuyết Mác về con người đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ quan niệm của ông về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội, về lao động với tư cách điều kiện quyết định của sự hình thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội và về sự giải phóng con người, giải phóng xã hội. Trên cơ sở này, khi luận giải vấn đề xây dựng con người Việt Nam theo học thuyết Mác, tác giả đã phân tích và làm rõ phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước và đề xuất một số giải pháp để thực hiện phương hướng đó.
95 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 994 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Vấn đề con người trong học thuyết mác và phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Triết học số 8 (207) năm 2008
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
HOÀNG ĐÌNH CÚC (*)
Trong bài viết này, học thuyết Mác về con người đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ quan niệm của ông về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội, về lao động với tư cách điều kiện quyết định của sự hình thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội và về sự giải phóng con người, giải phóng xã hội. Trên cơ sở này, khi luận giải vấn đề xây dựng con người Việt Nam theo học thuyết Mác, tác giả đã phân tích và làm rõ phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước và đề xuất một số giải pháp để thực hiện phương hướng đó.
Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về con người, bản chất con người. Tư tưởng triết học Cổ đại chủ yếu coi con người là một bộ phận của vũ trụ, là một thứ tiểu vũ trụ nào đó luôn phục tùng một khởi nguyên tối cao là số phận. Kitô giáo, ngay từ đầu, đã coi con người là một thực thể có hai bản nguyên gắn liền và mâu thuẫn nhau là tinh thần và thể xác. Trong thời Cận đại, triết học duy tâm (tiếp theo Kitô giáo) đã nhìn nhận con người trước hết ở bản chất tinh thần của nó, nghiên cứu bản tính con người theo chủ nghĩa tự nhiên và thừa nhận quyền tự trị của lý tính con người trong việc nhận thức bản chất của mình. Triết học duy tâm thế kỷ XIX đã tuyệt đối hoá yếu tố tinh thần trong con người, quy bản chất con người về cơ sở lý tính. Quan điểm này được thể hiện rõ nét trong triết học Hêghen.
Khác với Hêghen - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm khách quan, C.Mác cho rằng, “cơ sở hiện thực” của con người là “tổng số những lực lượng sản xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy hiện có” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(1). Do vậy, theo ông, muốn nhận thức con người phải hiểu “những cá nhân con người sống”, phương thức sinh sống của họ với tư cách hoạt động và hành vi hoạt động đầu tiên của họ là sản xuất vật chất – phương diện cơ bản của đời sống xã hội(2). Và, chỉ bằng cách ấy, những cá nhân con người mới trở thành con người hiện thực. Tính hiện thực của con người thể hiện ở sự tồn tại khách quan trong hoạt động thực tiễn của nó.“Con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội”(3). Xuất phát từ cơ sở hiện thực của con người, C.Mác đã tạo nên bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con người, về con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội, với tư cách nhân cách và về vị trí, vai trò của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Điều kiện quyết định của sự hình thành con người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác là lao động. Lao động xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ tổ tiên động vật thành con người. Trong lao động, con người thường xuyên biến đổi những điều kiện tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những nhu cầu thường xuyên phát triển của mình, xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất và tinh thần của mình. Nền văn hoá do con người sáng tạo ra như thế nào thì nền văn hoá ấy lại tạo ra con người như vậy. Hoạt động lao động phát triển làm biến đổi toàn bộ bản chất tự nhiên của tổ tiên con người. Về mặt xã hội, lao động đưa đến sự hình thành những chất mới - chất xã hội của con người, như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng giá trị, thế giới quan… Không chỉ thế, lao động còn đưa đến sự cải tạo bản năng con người trên hai bình diện là bắt bản năng phục tùng sự kiểm soát của lý trí và cải tạo bản năng thành trạng thái mới về chất của hoạt động nhận thức. Tất cả những điều ấy làm xuất hiện một loài sinh vật mới - Homo sapiens (người khôn) mà ngay từ đầu, nó đã thể hiện tính xã hội và lý trí. Nhấn mạnh tính phổ biến của yếu tố xã hội trong con người, C.Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(4). Bản chất con người không phải là “cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta nghĩ, mà có tính lịch sử – cụ thể. Nghĩa là, nội dung của bản chất ấy, tuy về căn bản là có tính xã hội, song tính xã hội ấy lại có sự biến đổi tuỳ theo nội dung cụ thể của thời đại, của hoàn cảnh xã hội – văn hoá,… Tổng hợp những nét bản chất của con người, có thể nói, con người là một thực thể có lý tính, là chủ thể của lao động, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
Trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội. Thông qua cấu trúc này, C.Mác đã làm sáng tỏ mối quan hệ con người – tự nhiên – xã hội. C.Mác không phủ nhận mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách “những cá nhân sống”. Ông cho rằng, “điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy” và mọi khoa học “đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy”(5). Mặt sinh học của con người thể hiện ra trong các hiện tượng hình thái – sinh lý học, di truyền học, các quá trình thần kinh – não và một số quá trình khác của cơ thể con người. C.Mác không thừa nhận quan điểm coi cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học. Mặt xã hội là nói về thế giới tinh thần bên trong của con người - đó là những quá trình ý thức và vô thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tính cách, tính khí,… Mỗi mặt riêng rẽ trên không làm rõ được hiện tượng con người trong tính chỉnh thể của nó. Khi chúng ta tiếp cận con người với tư cách một thực thể có lý tính, thì lý tính (tư duy) của con người là một hiện tượng sinh học – tâm lý – xã hội, được tổ chức một cách phức tạp. Cơ chất vật chất của tư duy tuân theo mặt sinh học, còn nội dung của tư duy là sự đan xen lẫn nhau giữa cái tâm lý và cái xã hội.
Mặt sinh học và mặt xã hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong con người. Ở cấp độ sinh học, con người nằm trong mối liên hệ tự nhiên của các hiện tượng và phục tùng tính tất yếu tự nhiên. Ở bản tính xã hội, con người hướng về tồn tại xã hội, về xã hội, về lịch sử loài người và văn hoá. Như vậy, con người là thể thống nhất hoàn chỉnh, là thực thể sinh học - xã hội, hình thành nên từ hai mặt: tự nhiên và xã hội. Yếu tố sinh học trong con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà hoà quyện vào và tồn tại trong yếu tố xã hội. Bản tính tự nhiên được chuyển vào bản tính xã hội và được cải biến ở trong đó. Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người.
Con người là một thực thể sinh học – xã hội được cụ thể hoá trong những cá nhân hiện thực. Cá nhân với nghĩa là một cá thể riêng rẽ, đại biểu cho loài sinh vật cao nhất – Homo sapiens - không phải là tổng số giản đơn cái sinh học và cái xã hội, mà là thể thống nhất dẫn đến hình thành một bậc thang mới về chất – nhân cách con người. Bản chất của nhân cách là sự kết tinh tiềm năng điều chỉnh – tinh thần, là trung tâm của tự ý thức, là nguồn gốc của ý chí và hạt nhân của tính cách, là chủ thể của hành động tự do và quyền lực tối cao trong đời sống nội tâm của con người. Trong nhân cách, điều quan trọng không chỉ là thấy cái chung, mà phải còn phải thấy cái đơn nhất là cá tính. Tính đa dạng và phong phú của cá tính con người là điều kiện chủ yếu tạo nên sự đa dạng của các cá nhân, là hình thức biểu hiện sự phát triển cao đẹp của xã hội, là nhu cầu thực sự của sự phát triển xã hội lành mạnh, được tổ chức một cách hợp lý. Mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội trước hết được biểu hiện thông qua tập thể ban đầu (tập thể gia đình, tập thể lớp học, tập thể lao động) để gia nhập vào xã hội. Tập thể ban đầu là xã hội ở quy mô nhỏ của xã hội loài người – trình độ tổ chức cao nhất của các hệ thống sống. Chính ở đây, cá nhân và xã hội trực tiếp tác động lẫn nhau. Ở tập thể ban đầu này, cá nhân được hình thành về mặt tinh thần, thể xác và hấp thụ được ở mức độ này hay mức độ khác cái đã được tạo ra bằng lao động của những thế hệ trước. Những hình thức giao tiếp trong tập thể tạo thành những mối liên hệ xã hội, làm hình thành diện mạo của mỗi con người. Thông qua tập thể ban đầu, “sự hoàn trả” cái cá nhân cho xã hội và những thành tựu của xã hội cho cá nhân đã diễn ra. Mỗi cá nhân mang trong mình dấu ấn của tập thể và mỗi tập thể cũng mang trong mình dấu ấn của các thành viên. Tập thể không phải là cái gì phi nhân cách, mà là sự liên hiệp những cá tính khác nhau, không lặp lại. Trong tập thể, cá nhân không chìm đi, không tan ra, mà nổi lên và tự khẳng định mình. C.Mác đã chỉ rõ vai trò của xã hội đối với sự hình thành cá nhân và vai trò của cá nhân đối với sự hình thành xã hội: “Bản thân xã hội sản xuất ra con ngườivới tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”(6). Trình độ giải phóng xã hội luôn được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người. Cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Cùng với việc xem xét con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội, con người với tư cách nhân cách, C.Mác còn làm sáng tỏ vị thế và vai trò của con người trong lịch sử. Theo C.Mác, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi lực lượng sản xuất xã hội; trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người và xã hội. Sự vận động và phát triển của lịch sử là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các thế hệ con người. Mỗi thế hệ con người luôn nhận được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất càng phát triển thì lịch sử càng trở thành lịch sử loài người. Với quan niệm ấy, C.Mác khẳng định: “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”(7). Thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại những dấu ấn sáng tạo của bản thân mình vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát triển bản thân mình. Khả năng và năng lực sáng tạo tiềm tàng của con người thông qua hoạt động thực tiễn đã làm nên các cuộc cách mạng trong những thời đại văn minh của nó, từ nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp đến nền văn minh tin học hiện nay. Với khả năng và năng lực đó, con người chính là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội, là chủ thể sáng tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của C.Mác, con người không chỉ là chủ thể của lao động sản xuất, mà còn là chủ thể của hoạt động lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử.
Khi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã giải đáp một cách duy vật vấn đề con người, bản chất con người, con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội, với tư cách nhân cách, vị trí và vai trò của con người trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại. Những quan niệm duy vật ấy không chỉ nhằm mục đích xây dựng lý luận về con người, mà hơn thế nữa, còn nhằm mục đích giải phóng con người, giải phóng xã hội. Xã hội tư bản, theo C.Mác, là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nội dung bước tiến ấy là cơ sở cho sự phát triển của bản chất con người, là điều kiện cho sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại. Nhưng, trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, khi mà tư liệu sản xuất chủ yếu còn nằm trong tay giai cấp tư sản thì con người chưa thực sự được giải phóng về chính trị, cũng chưa được giải phóng về kinh tế và văn hoá. Sự nghiệp giải phóng ấy, theo C.Mác, chỉ có thể thực hiện được khi chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu được xoá bỏ; và lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản(8).
Mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã hội. Do vậy, có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà từng bước thực hiện việc giải phóng con người trên thực tế, biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do, tạo nên một thể liên hiệp, “trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(9). Sự tự do đem lại cho con người quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh thần, được tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các năng lực của mình với tư cách sự thực hiện những nhu cầu cơ bản, quyền được nghỉ ngơi. Tự do cá nhân trong chủ nghĩa xã hội không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu hiện trong nghĩa vụ, trong trách nhiệm cá nhân. Rõ ràng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là giải pháp tối ưu cho các vấn đề xã hội liên quan tới sự phát triển xã hội và con người.
Quan điểm của C.Mác về con người, về giải phóng con người có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn, trở thành cơ sở lý luận cho nhiều ngành khoa học, cho Đảng ta trong việc giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội và con người.
Kế thừa tư tưởng về con người của học thuyết Mác, trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn lấy việc chăm lo cho hạnh phúc của con người làm mục tiêu phấn đấu cao nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta đều quán triệt, đều hướng tới mục tiêu giải phóng con người, phát triển toàn diện con người Việt Nam.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo”(10). Trong hơn 20 năm đổi mới, vấn đề xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta quán triệt, vận dụng và phát triển. Phương hướng, mục tiêu, điều kiện và giải pháp liên quan trực tiếp đến vấn đề xây dựng con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng ta chỉ rõ trong nhiều nghị quyết. Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ phương hướng chung là: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”(11). Xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng của C.Mác và của Hồ Chí Minh là sự chuẩn bị tích cực, chủ độngnguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cho tương lai và triển vọng của đất nước trên con đường phát triển theo lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Nói một cách cụ thể:
- Xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người Việt Nam với một nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao học vấn và văn hoá trên cơ sở nâng cao cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí của xã hội đến trình độ tư tưởng, thế giới quan, đạo đức cách mạng, biểu hiện rõ ở lao động và lối sống, kế thừa được những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn minh hiện đại.
- Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể con người, mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, trước hết là chất lượng phát triển của giai cấp công nhân với vai trò, sứ mệnh dẫn dắt xã hội, của khối liên minh công – nông – trí thức – lực lượng cơ bản nhất của xã hội.
- Xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng tới tương lai, cần tập trung đầu tư của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, chuẩn bị đầy đủ cho họ lập thân, lập nghiệp: có đủ sức khoẻ, tài năng, đạo đức, ý thức và bản lĩnh chính trị (theo tư tưởng của C.Mác là con người với tư cách thực thể lý tính, với tư cách nhân cách), xứng đáng là thế hệ kế tục sự nghiệp của cha anh.
- Để xây dựng con người Việt Nam theo phương hướng mà Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra, chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề đang được đặt ra sau đây:
+ Vấn đề thiết yếu, bức xúc của xã hội ta hiện nay là phải tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống, đảm bảo an ninh an toàn công dântrong một môi trường ổn định, lành mạnh với các chuẩn mực về kỷ luật, trật tự, kỷ cương, luật pháp. Theo tư tưởng của C.Mác, đây là tiền đề cho sự tồn tại hiện thực của con người. Trong suốt chặng đường của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn chăm lo cho dân có ăn, có mặc, có học hành, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do, được hưởng các quyền của dân một nước tự do, độc lập. Sau hơn 20 năm đổi mới, đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước, song số người thất nghiệp, mù chữ, sự chênh lệch giàu nghèo, tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em, căn bệnh AIDS, tệ nạn mại dâm, ma tuý… phát triển đã và đang làm cho xã hội không bình yên. Đảng phải có biện pháp đồng bộ, đủ mạnh mới tạo được tiền đề để xây dựng con người Việt Nam.
+ Nhu cầu phổ biến của xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ và giới trí thức Việt Nam hiện nay, là thực hiện công bằng xã hội trong sự phát triển của con người và xã hội, thực hiện và phát huy dân chủ, đặc biệt là dân chủ cơ sở để tạo môi trường xã hội tích cực nhằm đào tạo, giáo dục con người. Gắn liền với thực hiện nhu cầu trên là cuộc đấu tranh nhằm đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng đang gây tổn hại nghiêm trọng về thể chất, tinh thần cho xã hội, làm suy yếu chế độ ta.
+ Khâu cơ bản nhất để thực hiện quan điểm của Đảng ta về giáo dục - đào tạo với tư cách “quốc sách hàng đầu” là xúc tiến cải cách giáo dục trong nền giáo dục quốc dân, từ giáo dục mầm non, phổ thông, đến đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đồng thời với giải pháp này, đạo lý trong gia đình, nhà trường, xã hội mới lập lại được.
+ Một vấn đề quan trọng, đặt cơ sở bền vững cho việc xây dựng các thế hệ con người Việt Nam trong quá trình hình thành nhân cách con người là cần phải coi trọng xây dựng đời sống mới, mà nền tảng là đời sống gia đình, giáo dục văn hoá gia đình. Đời sống gia đình ở nước ta, cho đến nay, chưa được coi trọng đúng mức, là trở ngại cho quá trình hình thành cách và phát triển xã hội.
+ Con người không chỉ là chủ thể của lao động sản xuất, mà còn là chủ thể của lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử. Lịch sử dân tộc Việt Nam chứa đựng nhiều truyền thống quý báu. Giáo dục truyền thống đạo đức, văn hoá, cách mạng của dân tộc, của Đảng cho thế hệ trẻ là rất quan trọng. Đây là vấn đề cốt yếu để xây dựng con người, bởi sự vận động và phát triển của lịch sử là sự chuyển giao mọi lĩnh vực giữa các thế hệ con người. Xem nhẹ, phủ nhận truyền thống của dân tộc thì không thể đạt tới sự hiện đại đích thực.
Cách mạng Việt Nam cho thấy, muốn đi đến thắng lợi, trước hết phải có những con người tiên tiến đi đầu, lôi cuốn quần chúng vào con đường cách mạng, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn. Người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam là những gương mặt tiêu biểu cho lớp người tiên tiến ấy. Do vậy, giáo dục và rèn luyện đảng viên để họ xứng đáng là những gương mặt tiêu biểu cho con người Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Trung tâm của hoạt động này là giáo dục động cơ chính trị vào Đảng. Đồng thời, cần phải giáo dục, rèn luyện đảng viên để họ xứng đáng là tấm gương của quần chúng về năng lực trí tuệ, trách nhiệm chính trị, có dũng khí đấu tranh để bảo vệ chân lý, lối sống, đạo đức. Đó là những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cần phải giải quyết để xây dựng con người Việt Nam cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.r
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.55.
(2) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.28-29.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.569.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd., t.3, tr.11.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd, t.3, tr. 29.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.169.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.27, tr.658.
(8) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr.333.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.628.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Nxb Sự thật, Hà Nội,1991, tr.8-9.(11) Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106.
LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC TRỞ THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRỰC TIẾP CỦA C.MÁC VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẠM THỊ NGỌC TRẦM (*)
Về luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác, tác giả đã đưa ra và luận giải những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và những biểu hiện của quá trình này. Vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ nội dung khái niệm, bản chất và những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức; đồng thời, chỉ ra những điều kiện thiết yếu cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Cách đây hơn 100 năm, C.Mác đã dự đoán: “Đến một trình độ phát triển nào đó thì “tri thức xã hội phổ biến” (khoa học) biến thành “lực lượng sản xuất trực tiếp””(1). Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, luận điểm đó của C.Mác đang dần trở thành hiện thực một cách đầy thuyết phục.
Nhân kỷ niệm 190 năm Ngày sinh C.Mác, trong bài viết này, chúng tôi muốn nói về luận điểm đó của ông và vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
1- Những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Khoa học và cùng với khoa học là công nghệ là những thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học được vật hóa thành công cụ sản xuất (công cụ lao động), như máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…, đó là yếu tố động nhất và có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, tri thức khoa học có mặt trong khoa học quản lý, tổ chức và phân phối. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội nói chung, của phương thức sản xuất nói riêng, vai trò của khoa học và công nghệ cũng ngày càng được nâng cao, ngày càng thể hiện rõ ràng dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ vào quá trình không ngừng biến đổi và hoàn thiện dần của chúng. Từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, ngày nay, khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước chuyển này không phải là ngẫu nhiên, mà chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện nhất định hay “một trình độ phát triển nào đó” như C.Mác đã dự đoán. Vậy, những điều kiện đó là gì?
Điều kiện đầu tiên phải thuộc về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển cao, tạo cơ hội và địa bàn để khoa học và công nghệ phát huy vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp của mình.
Trong những nền sản xuất xã hội còn ở trình độ phát triển thấp trước đây, khoa học không thể trực tiếp đi vào sản xuất, mà phải trải qua khâu trung gian thực nghiệm khoa học, nhiều khi kéo dài hàng trăm năm. Tri thức khoa học phải thông qua một quá trình thực nghiệm khoa học lâu dài, phức tạp, con người mới tìm ra cách vận dụng những thành tựu thu được qua thực nghiệm đó vào sản xuất. Quá trình này thường diễn ra rất chậm chạp. Trong điều kiện như vậy, khoa học chỉ có thể biểu thị như một lực lượng sản xuất tiềm năng, chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ngày nay, khi sản xuất xã hội đã đạt đến trình độ phát triển cao, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi khoa học phải có phương thức giải quyết phù hợp, kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất tiếp tục phát triển và qua đó, khoa học cũng phát triển theo. Như vậy, trong điều kiện xã hội ngày nay, sản xuất đã tạo ra những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, những nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện những tri thức khoa học mới, những ngành khoa học mới. Đến lượt mình, những tri thức khoa học mới lại được nhanh chóng vật hóa để trở thành công cụ sản xuất mới và trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất. Ở đây, khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động, mà tham gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạp chí Triết học số 8 (207) năm 2008.doc