Trên thế giới, đặc biệt là các thị trường tài chính hiệu quả, có
những khái niệm mà hầu hết các nhà kinh doanh cổ phiếu luôn
luôn xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định đặt tài sản của mình
vào một loại tài sản nào đó. Họ thường đặt câu hỏi: Cổ phiếu này
có rủi ro không? Hệ số beta của cổ phiếu đó là bao nhiêu?
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bài viết Từ rủi ro đến Beta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Từ rủi ro đến Beta
Trên thế giới, đặc biệt là các thị trường tài chính hiệu quả, có
những khái niệm mà hầu hết các nhà kinh doanh cổ phiếu luôn
luôn xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định đặt tài sản của mình
vào một loại tài sản nào đó. Họ thường đặt câu hỏi: Cổ phiếu này
có rủi ro không? Hệ số beta của cổ phiếu đó là bao nhiêu?
Dĩ nhiên mọi người đều biết beta là một thước đo khả năng biến
động của một cổ phiếu (hay một danh mục) trong mối quan hệ
với phần còn lại của thị trường. Beta được tính cho từng doanh
nghiệp riêng biệt bằng phương pháp phân tích hồi quy (theo
wikipedia). Thế nhưng làm thế nào lượng hoá rủi ro? Vì sao beta
được giao cho "sứ mệnh" đo lường rủi ro của doanh nghiệp?
Ứng dụng của beta trên thế giới và Việt Nam như thế nào?
Câu hỏi 1: Làm thế nào lượng hoá rủi ro?
Khái niệm beta được hình thành trong quá trình giới tái chính tìm
cách lượng hoá rủi ro. trong kinh doanh rủi ro đuợc định nghĩa là
sự khác biệt hay sai lệch giữa tỷ suất lợi nhuận thực tế và so với
tỷ suất lợi nhuận dự kiến. Xét về mặt định tính, thì rủi ro tổng thể
của một công ty (hay cổ phiếu) là một tổng của hai thành phần cơ
bản:
* Rủi ro phi hệ thống (unsystematic risk) là những yếu tố tác động
gắn liền với từng công ty riêng biệt như rủi ro kinh doanh hay rủi
ro tài chính của công ty đó, mà không ảnh hưởng đến các công ty
khác (trừ các công ty lớn). Để giảm thiểu rủi ro loại này, nhà đầu
tư thường đa dạng hoá danh mục của mình. Do vậy rủi ro phi hệ
thô`ng còn được gọi là Rủi ro có thể đa dạng hoá (diversifiable
risks).
* Rủi ro hệ thống (systematic risk) là các yếu tố tác động lên tất
cả caá công ty trên thị trường. tất cả các công ty đều bị chi phối
bởi rủi ro hệ thống. Như vậy các nhà đầu tư không thể đa dạng
hoá để giảm thiểu rủi ro hệ thống. Do đó rủi ro này còn được gọi
là Rủi ro không thể đa dạng hoá (non-diversifiable risks).
Đầu tiên, người ta sử dụng một công cũ của ngành thống kê để
lượng hoá rủi ro. Đó chính là đại lượng Sigma. Theo đó sigma đại
diện cho sự biến động của các tỷ suất lợi nhuận mà một cổ phiếu
đạt được trong quá khứ. Đại lượng này là một thước đo của rủi ro
tổng thể được thể hiện thông qua sự biến động của tỷ suất lợi
nhuận. Chỉ tiêu sigma đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình cho
đến khi lý thuyết về danh mục tối ưu của Harry Markowitz ra đời.
Harry cho rằng nắm giữ một danh mục thị trường là điều khôn
ngoan, vì khi đó rủi ro phi hệ thống của từng cổ phiếu sẽ được
triệt tiều gần như hoàn toàn với điều kiện danh mục thị trường
phải đủ lớn. Ông gọi đó là lợi ích từ đa dạng hoá. Trước khi lý
thuyết này ra đời, người ta cho rằng rủi ro của một danh mục
chính là bình quân rủi ro theo tỷ trọng của từng cổ phiếu trong
danh mục. Tức là:
Tuy nhiên với những nghiên cứu thực nghiệm, cho thấy rủi ro của
một danh mục phải nhỏ hơn bình quân rủi ro theo tỷ trọng của
từng cổ phiếu, chứ không phải là một dấu bằng giữa hai vế. Để
giải thích điểm khác biệt này, ta xem lại công thức tính phương
sai của một danh mục - bao gồm hai cổ phiếu A và B - như sau:
Trong công thức (2), phương sai của một danh mục bằng bình
quân rủi ro theo tỷ trọng của từng cổ phiếu trừ cho một phần rủi
ro được giảm thiểu. Đó chính là lợi ích của đa dạng hoá. Khái
quát danh mục ban đầu lên thành danh mục thị trường, thỉ phần
lợi ích của đa dạng hoá được viết thành công thức như sau:
Như vậy nguyên nhân của việc giảm thiểu rủi ro khi đa dạng hoá
chính là sự tác động qua lại giữa các chứng khoán. Hay nói cách
khác đó là mức độ tương quan giữa các chứng khoán (ri,j). hệ số
này mang giá trị trong khoảng (-1;1), do đó lợi ích từ đa dạng hoá
luôn luôn là một số dương và khi tương quan giữa các chứng
khoán càng nhỏ thì lợi ích của đa dạng hoá càng cao.
Sau công trình của Harry, người ta nhận thấy sigma không còn là
một thước đo hoàn hảo. Vì đại lượng này chỉ đo lường được rủi
ro tổng thể. mà rủi ro tổng thể lại bao gồm rủi ro phi hệ thống và
rủi ro hệ thống.Như vậy, nếu rủi ro phi hệ thống có thể được triệt
tiêu bằng con đường đa dạng hoá, thì việc đòi hỏi một thước đo
mới của rủi ro là đều tất yếu. Thước đo mới phải liên quan chỉ
riêng lẻ đến loại rủi ro thứ hai - Rủi ro hệ thống.
Câu hỏi 2: Vì sao beta được giao cho "sứ mệnh" đo lường
rủi ro của doanh nghiệp?
Khi nói rủi ro phi hệ thống có thể bị triệt tiêu bằng cách đa dạng
hoá, điều này không có nghĩa là tất cả mọi nhà đầu tư đều nắm
giữ danh mục thị trường và bỏ qua việc xác định rủi ro phi hệ
thống của từng công ty.
Tuy nhiên việc xác định loại rủi ro thứ nhất, được xem là một
nghệ thuật, bởi vì mỗi ngành, mỗi công ty đêề có những rủi ro
riêng của nó. Do vậy loại rủi ro này không có bất cứ một cơ sở
chung nào giữa các doanh nghiệp để có thể mô hình hoá nó
thaàh một công thức. Do vậy người ta chỉ có thể llàm điều này
với rủi ro hệ thống dựa trên cơ sở chung là sự biến động tỷ suất
lợi nhuận của từng cổ phiếu so với sự biến động tỷ suất lợi nhuận
của toàn bộ thị trường. Và như thế hệ khái niệm hệ số beta đã ra
đời để thực hiện nhiệm vụ đo lường rủi ro và có khả năng so
sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau.
Rủi ro hệ thống của mỗi cổ phiếu được xem như tỷ phần đóng
góp rủi ro của từng cổ phiếu vào rủi ro của toàn bộ thị trường.
Chúng ta sẽ xem xét lại công thức tính phương sai của danh mục
thị truờng - được đơn giản hoá chỉ bao gồm 2 cổ phiếu A và B -
và đuợc biểu diễn duới dạng ma trận như sau:
Trong ma trận này, dòng đầu tiên chính là sự đóng góp rủi ro của
chứng khoán A vào danh mục thị trường. Điều này cũng tương tự
cho chứng khoán B. Và phần đóng góp náy được viết lại như
sau:
Hình này đã được thu nhỏ lại kích thước. Một số trình duyệt web
có thể làm hình thu nhỏ không rõ nét so với nguyên bản, bạn có
thể ấn vào hình để xem với kích thước nguyên bản (762x84 px).
Ta có thể chứng minh hiệp phương sai bình quân chính là hiệp
phương sai giữa tỷ suất lợi nhuận của chứng khoán A và tỷ suất
lợi nhuận của thị trường như sau:
Như vậy tỷ phần đóng góp rủi ro của cổ phiếu A vào danh mục thị
trường được thể hiện như sau:
Hình này đã được thu nhỏ lại kích thước. Một số trình duyệt web
có thể làm hình thu nhỏ không rõ nét so với nguyên bản, bạn có
thể ấn vào hình để xem với kích thước nguyên bản (692x128 px).
Như vậy, mức độ đóng góp rủi ro của một chứng khoán vào rủi ro
danh mục thị trường phụ thuộc vào phần thứ nhất là tỷ trọng của
nó trên thị trường và phần thứ hai là sự tác động của chứng
khoán vào danh mục thị trường. Phần thứ hai được định nghĩa là
hệ số beta của chứng khoán. khi đó:
Ta nhận thấy beta so sánh sự đồng biến động của chứng khoán
và thị trường với sự biến động riêng biệt của thị trường. Hệ số
này càng lớn chứng tỏ sự biến động của chứng khoán càng lớn
so với sự biến động của thị trường.
Beta được xác định với đầu vào là các tỷ suất lợi nhuận, mà tỷ
suất này được tính toán dựa trên các mức giá của cổ phiếu theo
thời gian. Hoá ra xét về mặt toán học beta chỉ là một công cụ đo
lường khả năng biến động giá của các cổ phiếu so với sự biến
động của chỉ số thị trường. như vậy tại sao nói beta là một đại
diện cho rủi ro của doanh nghiệp. Tất nhiên chỉ có thể giải thích
vấn đề này bằng EMH (Efficient Market Hyppothesis - Giả thuyết
thị trường hiệu quả), theo thuyết này giá cả chứng khoán sẽ phản
ánh tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp. Và như vậy beta đo
lường rủi ro trong sự thay đổi mức giá của cổ phiếu, cũng chính
là đo lường rủi ro của doanh nghiệp.
Trên thế giới, các thị trường tài chính phát triển được xem như là
thị trường hiệu quả. Hệ số beta ở các thị trường này là một thước
đo hiệu quả của rủi ro hệ thống.
Câu hỏi 3: Ứng dụng của beta trên thế giới và Việt Nam như
thế nào?
Khi khái niệm beta ra đời, một nhà kinh tế học nổi tiếng khác là
William Sharpe đã phát minh ra mô hình CAPM, chính mô hình
này sẽ trả lời câu hỏi số 3. Chúng ta vẫn thường nghe câu châm
ngôn của giới tài chính là high risk, high return. Điều này có nghĩa
là beta của một cổ phiếu càng cao - hay rủi ro càng cao - thì lợi
nhuận cũng phải cao để bù đắp cho sự sẵn lòng chấp nhận sự rủi
ro đó. Trở lại với CAPM, ông Sharpe đã sử dụng hệ số beta để
tìm mức phí bù đắp rủi ro khi đầu tư vào một cổ phiếu. Theo ông
phí rủi ro của cổ phiếu bằng beta lần phí rủi ro của thị trường
Beta được xác định bằng phương pháp phân tích hồi quy tuyến
tính - bình phương nhỏ nhất - với biến độc lập là và biến
phụ thuộc là . Tuy nhiên, một số nơi để đơn giản hoá
người ta giả định rf ít thay đổi và xem nó như một hằng số. Khi đó
người ta thực hiện hồi quy với hai biến độc lập và phụ thuộc mới
lần lượt là và .
Sau khi tìm ra hệ số beta được tính toán dựa vào các công ty
chuyên cung cấp dịch vụ tính toán như Bloomberg, Baseline,
Valueline hoặc do tự mỗi nhà đầu tư tính toán, dựa vào CAPM
chúng ta sẽ tìm ra mức phí bù đắp rủi ro tương ứng với mức rủi
ro mà chúng ta chấp nhận. tuy nhiên kết quả được xác định từ
CAPM chỉ đủ để bù đắp rủi ro hệ thống mà không tính đến rủi ro
của từng công ty. Do vậy chúng ta phải tiếp tục điều chỉnh mức
phí này dể có thể bù đắp cho rủi ro tổng thể. Cách làm dơn giản
nhất là cộng thêm vào mức phí được tính từ CAPM giá trị trung
bình đơn giản của các sai số ngẫu nhiên khi chúng ta tiến hành
hồi quy các dữ liệu quá khứ. các giá trị sai số ngẫu nhiên này đại
diện cho các rủi ro phi hệ thống, và một giá trị trugn bình đơn giản
của chúng là một thước đo phù hợp cho loại rủi ro này.
Ở các thị trường phát triển, beta được dùng để đánh giá một mức
phí rủi ro chuẩn cho các nhà đầu tư. nếu mức phí thực tế của một
cổ phiếu cao hơn mức phí chuẩn của chính cổ phiếu đó, thì đây
là một cơ hội tốt để mua vào. Vì lúc này cổ phiếu đang bị định giá
thấp hơn giá trị thật của nó. Và dĩ nhiên khi thị trường nhận ra sự
hớ hênh của mình trong việc định giá cổ phiếu, thì khi đó giá của
cổ phiếu sẽ được điều chỉnh tăng lên để mức phí rủi ro trở về
mức chuẩn. Và ngược lại khi mức phí rủi ro thấp hơn mức chuẩn,
thì lại là một cơ hội bán ra trước khi mức giá rơi xuống trở lại.
Chính EMH đã tước bỏ cái nhiệm vụ mà người ta giao cho beta ở
thị trường Việt Nam. Thật vậy với sự hình thành và hoạt động
trong hơn 7 năm, thì chưa thể nói TTCK Việt Nam là một thị
trường hiệu quả. Những vấn đề tồn tại ở TTCK Việt Nam bao
gồm:
* Thứ nhất đó là mức giá, EMH cho rằng mức giá phản ánh mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng ở Việt Nam mức giá chỉ thể
hiện một phần mà thôi, phần lớn là do sự tác động từ cung cầu
của các nhà đầu cơ. Do vậy beta được tính từ các mức giá này
không thể nói lên rủi ro của doanh nghiệp.
* Thứ hai đó là danh mục thị trường. Hiện nay ở Việt Nam có hai
chỉ số chính là VN-Index và Hastc-Index. hai chỉ số này chưa đủ
sức để tạo nên một danh mục thị trường, dựa trên hai phương
diện. Một là danh mục này chưa có đầy đủ các lĩnh vực ngành
nghề trong nền kinh tế. Hai là trong từng lĩnh vực không bao gồm
các doanh nghiệp đại diện cho lĩnh vực đó. Chính vì vậy sự biến
động của danh mục chưa đánh giá chính xác sự biến động của
nền kinh tế.
* Thứ ba khoảng thời gian các công ty được niêm yết còn quá
ngắn. Chủ yếu được lên sàn từ cuối năm 2006, do đó dữ liệu giá
chưa đủ độ dài để có thể tiến hành hồi quy tìm ra hệ số beta.
Sau những hạn chế vừa nêu của TTCK Việt Nam, vẫn biết beta
hầu như không có ý nghĩa gì nếu được tính toán trong giai đoạn
này. Nhưng có một ứng dụng mà tôi nghĩ sẽ là hữu ích nếu
chúng ta sử dụng nó đúng cách. hãy trở về với bản chất đầu tiên
của beta, đó là một công cụ thống kê đo lường khả năng biến
động của cổ phiếu so với sự biến động của thị trường.
Vậy tại sao không sử dụng beta như một chỉ báo (Indicator) trong
phân tích kỹ thuật. Theo đó khi beta bắt đầu vượt qua mốc 1, ta
sẽ quan sát chỉ số VN-Index, nếu nó có dấu hiệu tăng lên thì sẽ là
thời điểm nên mua vào, vì giá chứng khoán sẽ gia tăng theo sự
gia tăng của chỉ số. ngược lại nếu chỉ số giảm thì nên bán ra vì
giá chứng khoán sẽ giảm theo sự giảm của chỉ số.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_rui_ro_den_beta.pdf