Từ góc độ triết học, trong bài viết này, khi đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa chính trị trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, tác giả đã chỉ ra và luận giải ý nghĩa phương pháp luận trong việc phân tích mối quan hệ này của Đảng ta. Nhận thức rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán – tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, Đảng ta luôn xác định rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng, phân định rõ đối tác và đối tượng, xác định rõ đối tác chiến lược, lâu dài. Đó là cách nhìn nhận mới, mang ý nghĩa phương pháp luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh quốc tế hiện thời.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 6311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Phương pháp luận phân tích mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong nhận thức của đảng ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Triết học số 7 (206) năm 2008
PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG TRONG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA
PHAN TRỌNG HÀO (*)
Từ góc độ triết học, trong bài viết này, khi đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa chính trị trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, tác giả đã chỉ ra và luận giải ý nghĩa phương pháp luận trong việc phân tích mối quan hệ này của Đảng ta. Nhận thức rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán – tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, Đảng ta luôn xác định rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng, phân định rõ đối tác và đối tượng, xác định rõ đối tác chiến lược, lâu dài. Đó là cách nhìn nhận mới, mang ý nghĩa phương pháp luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh quốc tế hiện thời.
Nhận thức về đối tác và đối tượng là vấn đề nhạy cảm và cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự cần thiết phải thống nhất về nhận thức trong vấn đề này luôn là một đòi hỏi chính đáng và hợp lý, trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Vì thế, trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh việc cần phải “chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”(1).
1. Thực ra, không phải đến Đại hội X, Đảng ta mới bàn đến vấn đề này. Dưới các cách diễn đạt khác nhau, vấn đề bạn, thù, đối tác, đối tượng đã được Đảng ta bàn đến trong Luận cương chánh trị đầu tiên (1930). Tuy nhiên, phải đến Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7 - 2003), lần đầu tiên, trong Nghị quyết chuyên đề về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta mới đưa ra cách nhìn mới, thống nhất về vấn đề đối tác và đối tượng theo nguyên tắc: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh… Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta(2). Có thể nói, nguyên tắc trên đây cũng đồng thời là tiêu chí để xác định đối tác và đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Về nhận thức, cần xem xét, làm rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng. Trước hết, xét trên tầm vĩ mô, tổng thể (của chủ thể), đối tác (và đối tượng) được xác định là một chủ thể: một con người (ai); hay nhiều người, nhiều lực lượng (những ai, những thế lực,...).Theo đó, có thể hiểu là một người (cá nhân), một nhóm người (tổ chức) hay suy rộng ra, một tập đoàn người, một quốc gia, dân tộc, v.v. đều có thể là đối tác (hay đối tượng) của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở đây, đối tác (hay đối tượng) được xác định là một chủ thể hoàn chỉnh (một người, một tổ chức). Thứ hai, ở tầm vi mô, phạm vi hẹp, trong khuôn khổ của mỗi chủ thể, đối tác và đối tượng không phải là một chủ thể hoàn chỉnh, mà chỉ là những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận của mỗi chủ thể đó. Trong trường hợp này, đối tượng (hoặc đối tác) chỉ là một, một số, đa số hay hầu hết các mặt, thuộc tính, bộ phận của một chủ thể trong quan hệ với chúng ta. Vì thế, bất cứ chủ thể nào cũng có thể vừa là đối tượng lại vừa là đối tác, hay nói chính xác hơn, vừa có mặt đối tác, vừa có mặt đối tượng trong quan hệ với chúng ta. Diễn đạt theo cách khác, đối tượng và đối tác là hai mặt luôn đan xen và thống nhất trong mỗi chủ thể. Không có chủ thể nào chỉ là đối tác hoặc ngược lại, chỉ là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Vấn đề là, trong quan hệ với chúng ta, những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận ấy bộc lộ ra với tư cách gì, là đối tác hay đối tượng. Và, ngay trong mỗi “mặt”, mỗi “thuộc tính”, mỗi bộ phận cũng bao hàm các yếu tố đối tác và đối tượng ở trong nó. Như vậy, đối tác và đối tượng có những cấp độ rất khác nhau; chúng không chỉ là những thuộc tính đối lập nhau trong mỗi chủ thể, mà còn có ở trong nhau, ngay trong mỗi thuộc tính của chủ thể. Từ những phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận, sẽ không có đối tác (hoặc đối tượng) toàn diện, thuần túy. Các đối tác (hay đối tượng) toàn diện, thuần túy mà ta vẫn được nghe, nói trong cuộc sống thường ngày chỉ là khái niệm trừu tượng, có ý nghĩa tượng trưng và biểu đạt một sắc thái tình cảm chủquan mà thôi. Tuy vậy, cần thấy rằng, vẫn có những đối tác (hay đối tượng) nhiều mặt trong quan hệ với chúng ta. Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, chúng ta đã từng phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù nguy hiểm.
2. Cũng cần thấy rằng, “đối tác” và “đối tượng” không phải chỉ gồm những “mặt”, “thuộc tính”, những bộ phận ở trong cùng một chủ thể, đã được bộc lộ ra trong quan hệ với chúng ta. Bởi lẽ, đối tác hay đối tượng được xác định là những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận nào đấy của một chủ thể trong quan hệ với chủ thể khác. Ngoài những thuộc tính được biển hiện ra là những đối tác hay đối tượng trong quan hệ với các chủ thể, thì vẫn còn những thuộc tính khác đang ẩn giấu vai trò trong quan hệ với các chủ thể. Nghĩa là, trong mối quan hệ của một chủ thể xác định với chúng ta, không phải ngoài những mặt, những thuộc tính biểu hiện ra thành mặt đối tác (hay đối tượng) thì các thuộc tính còn lại đều là những mặt đối tượng (hay đối tác). Kể cả trong trường hợp chủ thể bộc lộ rất nhiều mặt đối tác và mặt đối tượng thì trong nó, vẫn còn những mặt, những thuộc tính chưa được biểu hiện ra. Đó có thể là những “đối tác thầm lặng”, đối tác tiềm năng trong tương lai. Và, đó cũng có thể là những “đối tượng giấu mặt”, “đối tượng tiềm ẩn”. Như vậy, đối tượng và đối tác, xét về phương thức biểu hiện, có hai dạng: một đã hiện hữu trong các mối quan hệ thực tế với chúng ta và một đang tồn tại dưới dạng tiềm năng, tiềm ẩn. Nhận thức đúng và dự báo được những dạng biểu hiện của hai loại đối tác và đối tượng này luôn là đòi hỏi thiết yếu của thực tiễn chính trị và khoa học chính trị.
3. Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết. Song, sự phân định này cần phải “mềm dẻo” và “uyển chuyển” trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới giữa đối tác và đối tượng thường rất “mờ nhòe”, tương đối và do vậy, nhận thức chúng không phải dễ dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và quan điểm trong nhận thức và xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất quan trọng để xác định đối tác là lợi ích. Lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó) phải được bảo đảm cho cả hai phía: phía chúng ta và phía đối tác, làm sao để đôi bên “cùng có lợi”, phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tiêu chí “cùng có lợi” đã trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác. Tiêu chí này bác bỏ quan điểm “lợi kỷ”, chỉ biết giành lợi ích về phía mình mà thiếu quan tâm đến lợi ích của phía đối tác. Quan điểm ích kỷ, hẹp hòi này sẽ dẫn tới không tôn trọng nhau, không bình đẳng, lợi dụng nhau trong quan hệ giữa các đối tác. Từ “lợi kỷ” sẽ dẫn tới “hại nhân”, sẵn sàng làm tất cả để “lợi mình, hại người”. Điều này cực kỳ nguy hiểm, vì nó có thể đưa đến sự chuyển hóa đối tác thành đối tượng. Đây là sản phẩm của lối tư duy thực dụng, thiển cận, không phù hợp với không gian quan hệ mới giữa các đối tác văn minh, hiện đại. Vì thế, trong quan hệ giữa các đối tác, ngoài mối quan tâm về lợi ích là chủ chốt nhất, thì vấn đề chữ “tín” đã và đang cần phải được đặt lên hàng đầu. Cần phải tín nhiệm, tin tưởng nhau, tôn trọng nhau và chỉ có như vậy, mới trở thành đối tác thực sự của nhau.
Như vậy, về tính chất, dưới góc độ lợi ích chung, có thể thấy đối tác và đối tượng mang lại lợi ích đối lập nhau (trái ngược nhau) trong quan hệ với chúng ta: đối tác mang lại lợi ích cho ta, đối tượng thì ngược lại.
Tuy nhiên, lợi hay hại là xét trong những quan hệ xác định, rất cụ thể, ở những thời điểm cụ thể của những đối tác, đối tượng cụ thể. Từ đó, có thể hiểu là: sẽ không có đối tác vĩnh viễn và cũng sẽ không có đối tượng bất biến, mãi mãi không thay đổi. Đối tượng và đối tác có thể thay đổi tính chất, có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện, không gian và thời gian của những quan hệ nhất định. Biện chứng của cuộc sống đòi hỏi phải khách quan, toàn diện trong xem xét, đánh giá đối tác, đối tượng và phải biết phân tích, nắm vững bước chuyển hoá đó để có đối sách phù hợp. Cần tránh giáo điều, siêu hình, máy móc hay tuỳ tiện, vô nguyên tắc trong xử lý vấn đề đối tác và đối tượng. Phải biết tranh thủ khai thác mặt đối tác, nhưng cũng luôn phải cảnh giác, đấu tranh với mặt đối tượng trong quan hệ với các chủ thể. Cần phải lấy lợi ích căn bản của quốc gia, dân tộc, của chủ nghĩa xã hội làm “cái bất biến” để đối phó với “cái vạn biến” của đối tác và đối tượng. Thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ mọi khả năng, điều kiện để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Mặc dù không có đối tác vĩnh viễn, nhưng vẫn và luôn cần phải có đối tác chiến lược, lâu dài. Chúng ta đang thiếu những đối tác chiến lược, tầm cỡ và “toàn diện”, có thể bảo đảm lợi ích lâu dài, chắc chắn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, nếu tự neo mình vào một “điểm tựa” bất biến thì chưa đủ để bảo đảm sự ổn định lâu dài và phát triển bền vững của đất nước. Cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các đối tác song song với giải quyết mối quan hệ giữa các đối tượng và mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Làm thế nào để tránh sự chuyển hóa bất lợi từ đối tác trở thành đối tượng, mà chỉ có thể tạo ra sự chuyển hóa ngược lại: từ đối tượng trở thành đối tác. Đây chính là sự nhận thức mới về vấn đề địch - ta, đối tượng - đối tác theo tinh thần: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(3). Không đồng nhất đối tác với bạn, nhưng cũng không đồng nhất đối tượng với thù. Bạn, theo nghĩa rộng, đã bao hàm đối tác trong đó. Còn đối tác chưa hẳn đã là bạn theo đúng nghĩa, đó có thể chỉ là “bạn” trên một góc độ nào đấy, chưa phải là bạn đích thực. Như vậy, đối tác chỉ là một loại “bạn”; kẻ thù cũng chỉ là một loại đối tượng, nó có thể hiện diện là “đối tượng tác chiến” - loại đối tượng cần đấu tranh để loại bỏ, chứ không phải loại đối tượng đấu tranh để hợp tác. Chúng ta không mong muốn có nhiều “đối tượng”, nhất là đối tượng kẻ thù. Chúng ta càng không muốn có “kẻ thù truyền kiếp”, nhưng thực tế cuộc sống buộc chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác và đấu tranh cách mạng.
Trong bối cảnh tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể, nhạy cảm. Nếu không thấy được sự mâu thuẫn, khác biệt trong các đối tác dễ đi đến chỉ thấy mặt hợp tác, sự thống nhất mà quên đi sự đấu tranh. Bài học lịch sử của An Dương Vương còn đó! Ngược lại, không thấy mặt cần tranh thủ, hợp tác trong mỗi đối tượng thì sẽ bỏ mất cơ hội có thể làm phân hóa, chuyển hóa đối tượng thành đối tác, đồng minh có lợi cho ta. Khi giải quyết vấn đề đối tác, đối tượng phải có tư duy chiến lược, kết hợp giữa chiến lược với sách lược; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích cả trước mắt và lâu dài, cả cục bộ và toàn cục, cả đối nội và đối ngoại. Vấn đề này, trong bối cảnh chiến tranh trước đây, chúng ta đã làm tốt, nhưng trong bối cảnh chiến trường - thương trường phức tạp hiện nay, chúng ta cần quan tâm nghiên cứu thoả đáng và phải tỉnh táo, thực tế hơn nữa. Cần thấm nhuần sâu sắc chủ trương Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(4) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra 60 năm trước đây.r
(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị – Quân sự.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 109.
(2) Xem: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 44.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam Sđd., tr. 112.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 220.
THỰC CHẤT CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DO C.MÁC THỰC HIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Ở THỜI ĐẠI NGÀY NAY
TRẦN VĂN PHÒNG (*)
Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học và các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn của nó trong việc phát triển triết học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học của Hêraclít còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ, chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong"(1).
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này, về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hêghen không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm. Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành khoa học, mặc dù nó có đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Nghĩa là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ được chủ nghĩa duy tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của nó là lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”(2). Rằng, “chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(3). Như vậy, với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”(4). Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến”(5). Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(6). Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới. Các nhà triết học Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng, phải thông qua hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”(7). Không phải ngẫu nhiên mà sau này, C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”(8).
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chấtcủa mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”(9). Do vậy, triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học được coi là “bộ môn” của thần học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng thể tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v.. Trong triết học cổ điển Đức, triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”(10). Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạp chí Triết học số 7 (206) năm 2008.doc