Trong thời kỳ mở cửa, nền kinh tế hội nhập với bên ngoài, đặc biệt hơn là Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đây là mốc đánh dấu những thay đổi, những ảnh hưởng không nhỏ tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, đặc biệt là các doang nghiệp trẻ. Việc gia nhập WTO mang lại cho các doanh nghiệp nước nhà những cơ hội nhưng cũng có những thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
Việt Nam có khoảng 350.000 doanh nghiệp nhưng có tới hơn 90% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). DNNVV đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đóng góp 40% GDP cả nước. Theo phân tích và dự báo của các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn trong thời kỳ suy giảm kinh tế thế giới và năm 2009 được đánh giá là năm khó khăn nhất, điều này tác động lớn đến các DNNVV ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa cũng không nằm ngoài vòng hội nhập kinh tế. Để có chỗ đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa phải có những bước đi đúng đắn, những chiến lược được lên một cách kỹ lưỡng trong điều kiện hiện nay. Nhất là năm 2009 được xem là năm đầy khó khăn và thách thức cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ những tình hình biến động trong nước và quốc tế, những vấn đề nội tại của các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hoá. Với những tài liệu thu thập được và tìm hiểu về thực trạng nền kinh tế hiện nay, em nghiên cứu đề tài:
Nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015.
Bài viết bao gồm những nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về các DNNVV và các vấn đề về cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Một số kiến nghị về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015.
94 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong thời kỳ mở cửa, nền kinh tế hội nhập với bên ngoài, đặc biệt hơn là Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đây là mốc đánh dấu những thay đổi, những ảnh hưởng không nhỏ tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, đặc biệt là các doang nghiệp trẻ. Việc gia nhập WTO mang lại cho các doanh nghiệp nước nhà những cơ hội nhưng cũng có những thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
Việt Nam có khoảng 350.000 doanh nghiệp nhưng có tới hơn 90% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). DNNVV đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đóng góp 40% GDP cả nước. Theo phân tích và dự báo của các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn trong thời kỳ suy giảm kinh tế thế giới và năm 2009 được đánh giá là năm khó khăn nhất, điều này tác động lớn đến các DNNVV ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa cũng không nằm ngoài vòng hội nhập kinh tế. Để có chỗ đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa phải có những bước đi đúng đắn, những chiến lược được lên một cách kỹ lưỡng trong điều kiện hiện nay. Nhất là năm 2009 được xem là năm đầy khó khăn và thách thức cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ những tình hình biến động trong nước và quốc tế, những vấn đề nội tại của các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hoá. Với những tài liệu thu thập được và tìm hiểu về thực trạng nền kinh tế hiện nay, em nghiên cứu đề tài:
Nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015.
Bài viết bao gồm những nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về các DNNVV và các vấn đề về cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Một số kiến nghị về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC DNNVV VÀ CÁC VẤN ĐỀ VỀ CẠNH TRANH
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ CÁC DNNVV
1.Các khái niệm.
1.1.Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch. được đăng ký kinh doanh theo quy định của Pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
1.2.Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ – CP về trợ giúp phát triển DNNVV định nghĩa:
DNNVV là một cơ sở sản xuất kinh doanh có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VND (trên 600.000 USD) hoặc có số lao động trung bình hằng năm không quá 300 lao động.
Các tiêu chí về DNNVV ở Việt Nam (lao động và vốn đăng ký) không có quy định lượng tối thiểu và do đó DNNVV theo định nghĩa của Việt Nam bao gồm cả những doanh nghiệp siêu nhỏ theo cách hiểu của nhiều quốc gia khác.
Cách định nghĩa này về DNNVV tương tự như định nghĩa của liên minh Châu Âu, xác định DNNVV là các doanh nghiệp có ít hơn 250 lao động tồn tại dưới bất kỳ hình thức pháp lý và cơ cấu sở hữu nào.
So với những định nghĩa về DNNVV của các nước trong khu vực và các nước khác trên thế giới, định nghĩa DNNVV của Việt Nam mang tính tổng quát, không đi sâu vào chi tiết loại hình, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp và chưa phản ánh được thực chất quy mô doanh nghiệp đối với các ngành và các lĩnh vực khác nhau. Theo quy định của pháp luật hiện hành, vốn đăng ký của doanh nghiệp là do người thành lập doanh nghiệp tự kê khai và chịu trách nhiệm về sự kê khai của mình, trừ các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực đòi hỏi phải có mức vốn pháp định như kinh doanh vàng, du lịch lữ hành, bảo hiểm, kinh doanh địa ốc. Mức vốn này chỉ phản ánh trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong công ty, của doanh nghiệp đối với khoản nợ, lãi phát sinh trong quá trình hoạt động. Trên thực tế vốn đăng ký có sự chênh lệch so với vốn hoạt động doanh nghiệp.
Chỉ tiêu về số lao động bình quân trong năm của doanh nghiệp cũng chỉ là con số dự kiến và pháp luật hiện hành cũng không bắt buộc người thành lập doanh nghiệp phải kê khai nên cũng không có căn cứ để phân loại doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp trong các ngành nghề khác nhau sử dụng số lượng lao động rất khác nhau.
Việc sử dụng một trong hai tiêu chí (vốn đăng ký và bình quân lao động) khiến cho việc xác định một doanh nghiệp có phải là DNNVV hay không đôi khi gặp khó khăn, đôi khi bỏ sót đối tượng của các chương trình trợ giúp, đôi khi có doanh nghiệp không thuộc đối tượng trợ giúp của chương trình lại vẫn được tham gia. Hơn nữa, chỉ tiêu số lao động bình quân trong năm là chỉ tiêu có tính động rất lớn do hiện tượng lao động theo vụ mùa ở Việt Nam rất phổ biến và số lao động này thay đổi công việc thường xuyên nên càng gây khó khăn hơn trong việc xác định doanh nghiệp có phải là DNNVV hay không.
1.3.Các loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.1 Các nhóm tiêu chí phân loại DNNVV.
Việc phân loại các DNNVV có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu và tìm kiếm các biện pháp tác động nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV một cách có hiệu quả. Trong thực tế không có tiêu thức thống nhất nào, tuỳ thuộc vào mỗi thời kỳ, từng địa bàn, ngành nghề…
Thông thường, để phân loại DNNVV thường dựa trên hai tiêu chí phổ biến: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính: Là tiêu chí dựa trên những đặc trưng cơ bản của DNNVV như đầu mối quản lý, mức độ phức tạp của quản lý, mức độ chuyên môn hóa...Tiêu chí này phản ánh chính xác bản chất vấn đề nhưng lại khó xác định trong thực tế. Vì vậy mà tiêu chí này chỉ dùng để tham khảo kiểm chứng.
Tiêu chí định lượng: Là những tiêu chí nhằm lượng hóa những tiêu chí định tính nói trên. Tiêu chí này sử dụng các tiêu thức về số lượng như số lao động, tài sản, vốn góp hay doanh thu, lợi nhuận.
Theo định nghĩa về DNNVV ở Việt Nam, việc phân loại DNNVV theo hai tiêu chí là lao động bình quân và vốn đăng ký. Xét trên thực tế là rất phù hợp với tình hình kinh tế, điều kiện thực tiễn của Việt Nam (là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, trình độ công nghệ, trình độ quản lý còn hạn chế…chưa có chuẩn mực đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực). Việc phân loại doanh nghiệp theo hai tiêu chí này là phổ biến, vì hầu hết việc xác định hai tiêu thức vốn đăng ký và số lao động bình quân năm là dễ dàng, tương đối chính xác trong thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, tuy việc xác định theo hai tiêu chí này chỉ phản ánh được quy mô đầu vào, song với các tiêu chí khác như vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động, doanh thu, lợi nhuận… đều rất khó xác định. Tiêu chí doanh thu (hoặc giá trị gia tăng) phản ánh quy mô doanh nghiệp thông qua kết quả kinh doanh nhưng trong điều kiện Việt Nam thì tiêu chí này rất khó xác định, và nếu xác định được thì khó có số liệu chính xác. Tiêu chí vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động không phản ánh đầy đủ và thực chất uy mô doanh nghiệp trong các ngành nghề khác nhau. Vốn cố định có sự khác biệt lớn giữa các ngành sản xuất và thương mại; vốn lưu động có sự khác biệt lớn giữa các lĩnh vực, ngành nghề.
Lượng hoá tiêu chí phân loại DNNVV ở Việt Nam như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV ở Việt Nam
Công nghiệp
Thương mại, dịch vụ
DNNVV
Trong đó: Doanh nghiệp nhỏ
DNNVV
Trong đó: Doanh nghiệp nhỏ
Vốn sản xuất (VND)
Dưới 5 tỷ
Dưới 1 tỷ
Dưới 2 tỷ
Dưới 1 tỷ
Lao động thường xuyên (người)
Dưới 300
Dưới 50
Dưới 200
Dưới 30
(Nguồn: Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam đến năm 2005_ PGS.TS Nguyễn Cúc_ NXB Chính trị quốc gia_Hà Nội 2000).
1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phân loại DNNVV
Trình độ phát triển của một quốc gia: Quốc gia càng phát triển thì các tiêu chí phân loại càng nhiều, trị số các tiêu thức tăng lên và ngược lại.
Tính chất lịch sử: Ở những thời điểm khác nhau thì vị thế doanh nghiệp sẽ khác nhau trong khi quy mô doanh nghiệp không đổi. Do vậy việc tính đến trình độ phát triển từng giai đoạn lịch sử trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình. Hệ số này chỉ sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau.
Tính chất vùng lãnh thổ: Mỗi một vùng lãnh thổ khác nhau thì có sự phát triển khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội. Có sự khác nhau về số lượng doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp giữa nông thôn và thành thị. Ví dụ , một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng nó lại có thể là lớn đối với các vùng miền núi, nông thôn. Do đó mà thông thường khi so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng với nhau ta cần phải tính đến hệ số vùng.
Tính chất ngành nghề: Tùy theo đặc điểm của từng ngành nghề khác nhau mà phân loại các DNNVV khác nhau. Có những ngành sử dụng nhiều lao động (ngành dệt may), có những ngành sử dụng nhiều công nghệ. Do đó khi so sánh, đối chứng giữa các ngành với nhau ta thường sử dụng tới hệ số ngành.
Mục đích phân loại: Khi phân loại các DNNVV cần chú ý đến việc phân loại để làm gì, với mục đích gì. Tùy vào mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nghề với những mục đích khác nhau thì có tiêu thức phân loại riêng. Chẳng hạn, phân loại nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp yếu, mới ra đời; phân loại nhằm bảo hộ các doanh nghiệp trong nước trước những đối thủ ở nước ngoài...
Nhìn chung, việc phân loại ở mỗi nước có những điểm khác nhau, tuy nhiên vẫn có những điểm chung là đều nhằm hỗ trợ DNNVV phát triển để đạt được những mục đích như: huy động tiềm năng vào sản xuất, đap ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng, giảm thất nghiệp, tăng tính năng động của thị trường, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh…
2.Đặc điểm của các loại hình DNNVV
Các DNNVV ở Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức doanh nghiệp, bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, doanh nghiệp dân doanh thành lập theo Luật doanh nghiệp 2005 đến các hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã.
Là những doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây thường là các doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Nguồn vốn của các DNNVV dễ huy động, chủ yếu được huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi của các hộ gia đình, cá thể.... Tuy nhiên, đặc điểm này lại làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình họat động của mình. Vì nguồn vốn của DNNVV lại nhỏ nên sẽ gây khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, áp dụng và thay đổi công nghệ.
Với các DNNVV, quy mô lao động chủ yếu là dưới 300 người, thậm chí có những DN chỉ có vài lao động.
Khả năng quản lý hạn chế: Các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ sư hoặc kỹ thuật viên đứng lên sáng lập và vận hành doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý doanh nghiệp, vừa là người tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Đôi khi, việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào qua trình sản xuất. Phần lớn những người chủ doanh nghiệp đều không được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào, thậm chí là chưa qua khóa đào tạo nào.
Trình độ lao động có tay nghề thấp. Đa số lao động trong DNNVV chỉ là lao động phổ thông, chưa qua các lớp đào tạo bài bản do đó sức lao động ở đây thường rẻ hơn so với lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao. Chế độ đãi ngộ nhân viên thường không được chú trọng. Vì thế, các chủ DNNVV thường không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao động có tay nghề, có trình độ cao do hạn chế về mặt tài chính
Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai. Nhiều DNNVV có những sáng kiến công nghệ tiên tiến nhưng do nguồn vốn nhỏ, lại được huy động từ các hộ gia đình, các thể...vì thể mà không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai. Việc hình thành nên các công nghệ mới tại các DNNVV là điều hết sức khó khăn. Những doanh nghiệp nào có sáng kiến về công nghệ mới đôi khi phải bán lại sáng kiến cho các doanh nghiệp lớn hơn, có đủ khả năng tài chính trong việc nghiên cứu triển khai công nghệ.
Các DNNVV lại linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị của dây truyền công nghệ thường thấp và họ thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ lạc hậu.
Các DNNVV thường sử dụng chính diện tích đất riêng của mình làm trụ sở kinh doanh, sản xuất. Rất khó khăn trong việc thuê mặt bằng sản xuất nếu có ý định mở rộng quy mô sản xuất. Và nếu thuê được đất thì gặp trở ngại trong việc giải phóng mặt bằng, đền bù.
Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt là với thị trường nước ngoài. Vì hạn chế về mặt tài chính, hạn chế về việc áp dụng công nghệ và lao động có trình độ tay nghề không cao, khả năng quản lý của các chủ doanh nghiệp còn hạn chế vì thế việc tiếp cận thị trường, phán đoán nhu cầu của thị trường đối với các DNNVV không được nhạy bén. Phạm vi hoạt động của các DNNVV thường hẹp, đôi khi chỉ bó hẹp trong vùng, lãnh thổ nhất định vì thế tính bao quát thị trường không cao. Đối với các DNNVV thì việc tiếp cận thị trường nước ngoài là một việc khó khăn, nếu không nói là không thể đối với những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của DNNVV.
3.1 Trình độ phát triển Kinh tế - xã hội.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng.
Hầu hết các doanh nghiệp đều phải nghiên cứu tình hình phát triển Kinh tế - Xã hội nhằm biết được những cơ hội và những thách thức trong sự phát triển của doanh nghiệp.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao thì sự phát triển của doanh nghiệp lớn càng nhiều, tính cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Vì vậy, để tồn tại trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có khả năng cạnh tranh cao, các DNNVV trong thời kỳ hội nhập cần phải liên kết với nhau để thắng được sức cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn trong nước và các doanh nghiệp ngoài nước.
Sự phát triển kinh tế - xã hội càng cao thì sự phối hợp giữa các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng cành trở nên mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực, thống nhất với nhau nhằm khắc phục được những hạn chế, phát huy tính tích cực của từng loại hình quy mô.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao càng làm cho sự phát triển của các DNNVV trở nên ổn định hơn, có phương hướng rõ ràng cho quá trình phát triển doanh nghiệp.
3.2 Chính sách và cơ chế quản lý.
Thủ tục hành chính rờm rà, kéo dài sẽ làm mất cơ hội, doanh nghiệp không thể triển khai hoạt động theo nhịp độ thị trường sẽ gây ra những thiệt hại lớn.
Các DNNVV luôn gặp những bất lợi trong kinh doanh hơn những doanh nghiệp lớn đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay khi mà nền kinh tế thị trường được quyết định bởi các tập đoàn kinh tế lớn. Vì vậy, những chính sách ưu tiên hỗ trợ sự phát triển của các DNNVV là cần thiết. Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước thì các DNNVV khó có khả năng tồn tại và phát triển do khả năng nghiên cứu, ứng dụng KHCN còn nhiều yếu kém, khả năng tiếp cận thị trường thấp.
Chính sách ưu tiên phát triển các DNNVV đã trở thành một chính sách phổ biến và được khẳng định tính đúng đắn của nó qua thực tế phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới. Chính sách, cơ chế sẽ tạo môi trường pháp lý và những điều kiện cần thiết để các DNNVV có thể phát triển tự do, không bị chèn ép bởi các thế lực lớn.
Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi tạo cơ sở cho các doanh nghiệp nói chung, các DNNVV nói riêng liên kết với nhau một cách chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh tổng thể của từng khu vực, của toàn nền kinh tế.
Để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngày 10/01/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/QĐ-TTg về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010.
Các tỉnh trong cả nước hầu như đều triển khai đề án thực hiện cơ chế “Một cửa liên thông” trong cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, con dấu và mã số thuế và quy chế tạm thời quy định việc phối hợp trong việc thực hiện cơ chế “Một cửa liên thông” tại bộ phận đăng ký kinh doanh cấp dấu và mã số thuế, số doanh nghiệp đăng ký mới và chuyển đổi nội dung đăng ký kinh doanh tăng lên, thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp giảm xuống.
Tuy nhiên ở một số địa phương sự phối hợp giữa các cơ quan trong giải quyết các thủ tục cho doanh nghiệp vẫn còn những bất cập, nhà đầu tư phải đi lại nhiều lần, thời gian vẫn còn kéo dài (điều tra 6.700 doanh nghiệp dân doanh của VCCI cho thấy thời gian bình quân để các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong năm 2006 là 22,7 ngày, có hơn 25% số doanh nghiệp thành lập từ năm 2006 đến nay mất hơn 30 ngày để nhận được tất cả những giấy tờ cần thiết. Thời gian bình quân để các doanh nghiệp nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lên đến 131,8 ngày). Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc khai thác cơ hội kinh doanh và khả năng phát triển số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung các quy trình, thủ tục hành chính cho việc thành lập và phát triển doanh nghiệp đã được rà soát, điều chỉnh, nhưng vẫn còn rườm rà, phức tạp, gây phiền hà, bức xúc cho người dân cũng như cho doanh nghiệp khi đến liên hệ, giải quyết với cơ quan nhà nước. Đồng thời, các sở-ngành, quận-huyện khi liên hệ, giải quyết công việc với các cơ quan, đơn vị khác hoặc ngay cả giải quyết công việc nội bộ cũng thiếu sự phối hợp đồng bộ, gây chậm trễ, ách tắc, phiền hà cho các doanh nghiệp và người dân.
3.3 Đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý DNNVV.
Sự xuất hiện và tồn tại của các DN phụ thuộc nhiều vào đội ngũ các nhà sáng lập, các nhà lãnh đạo các DN đó. Do đặc điểm lấy cạnh tranh là phương thức tồn tại, đòi hỏi các DN phải thường xuyên phải thay đổi, thích nghi với môi trường kinh doanh, phản ứng với những tác động bất lợi cho sự phát triển. Sự thành lập mới, sự sát nhập, sự giải thể của các DNNVV thường xuyên diễn ra. Đây là sức ép mà buộc những người lãnh đạo, quản lý các DNNVV phải có sự linh hoạt trong điều hành, dám nghĩ, dám làm và dám mạo hiểm.
Sự có mặt của các nhà khởi sự doanh nghiệp cùng với trình độ và nhận thức của họ về tình hình thị trường và khả năng nắm bắt các cơ hội kinh doanh sẽ có tác động trực tiếp tới sự phát triển các DNNVV. Sự phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia phụ thuộc nhiều vào đội ngũ này, vì vậy việc xây dựng đội ngũ các nhà sáng lập là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi nước.
Ở Việt Nam, phần lớn các chủ DNNVV không được đào tạo bài bản, hoạt động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiếu những kiến thức căn bản về thị trường và chưa được hỗ trợ những thông tin cần thiết. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho khả năng cạnh tranh của các DNNVV còn nhiều yếu kém.
3.4 Khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN).
Khả năng áp dụng tiến bộ công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các DN nói chung và các DNNVV nói riêng. Áp dụng KHCN làm tăng năng suất lao động, tăng khả năng thích ứng với thị trường của DN.
Sự phát triển của KHCN và đặc biệt là CNTT đã mở ra khả năng rộng lớn cho sự phát triển của DN nói chung và đặc biệt là các DNNVV nói riêng
Thứ nhất: Sự phát triển KHCN tạo điều kiện cho các DN có thể trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Việc ứng dụng KHCN trong sản xuất tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường, nhất là ứng dụng những công nghệ mới, khai thác công nghệ mới. Xu thế hiện nay là sự kết hợp lợi thế của doanh nghiệp lớn có sự phối hợp các nguồn lực của DNNVV tạo ra một hệ thống sản xuất linh hoạt, đáp ứng nhanh, kịp thời những đòi hỏi của thị trường. Sự phát triển của công nghệ càng xúc tác cho mối quan hệ này càng trở nên chặt chẽ và phát triển hơn.
Thứ hai: Khả năng ứng dụng KHCN tạo khả năng liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong cùng một hệ thống. Sự phát triển CNTT là một bước tiến xa của nhân loại, CNTT giúp các doanh nghiệp có khả năng cập nhật, nắm bắt thông tin kịp thời để điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp, tăng khả năng điều hành từ xa từ một trung tâm tới các DNNVV.
Ở Việt nam, trình độ và khả năng ứng dụng KHCN của các DNNVV còn nhiều hạn chế là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới năng xuất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh. Những nguyên nhân dẫn đến công nghệ lạc hậu ở các DNNVV là do thiếu vốn, thiếu thông tin về công nghệ và trình độ khai thác, sử dụng công nghệ mới cảu đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế…
Năm 2007, Bộ Công Thương đã hỗ trợ đầu tư xây dựng 74 mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sản phẩm mới, công nghệ mới, tăng 2,5 lần so với năm 2006; tổng kinh phí hỗ trợ là 5.650 triệu đồng, thu hút được 574,449 tỷ đồng vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn sản xuất và kinh doanh của các DNCNNT thì cơ sở hạ tầng về khoa học công nghệ rất lớn, sự hỗ trợ như trên chỉ là một con số rất nhỏ so với nhu cầu cần hỗ trợ của các DNCNNT. Hầu hết các DNCNNT rất lúng túng trong việc ứng dụng KHCN và chưa xây dựng được lộ trình đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình.
3.5 Khả năng tiếp cận thị trường
Khả năng tiếp cận thị trường cũng là yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp. Tính chất, quy mô, nhu cầu của thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của DNNVV. Thị trường với khối lượng nhu cầu lớn, đa dạng, thay đổi nhanh sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các DNNVV. Ngược lại, thị trường có dung lượng ít, chủng loại ít, tương đối ổn định sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp lớn tăng tính độc quyền của mình và gây khó khăn cho hoạt động của các DNNVV.
Khả năng tiếp cận thị trường tổt sẽ nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu thị trường. Các DNNVV sẽ biết được cần phải làm gì, cung cấp dịch vụ - hàng hóa nào và cho đối tượng nào. Điều này làm tăng tính cạnh tranh của các DNNVV. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo, quản lý các DNNVV phải thật sự nhạy bén thị trường, nắm bắt được xu hướng của thị trường.
Hoạt động của các DNNVV sẽ chịu tác động trực tiếp của áp lực cạnh tranh trên thị trường. một thị trường cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp lớn là chủ yếu, cộng với môi trường pháp luật không hoàn hảo sẽ gây những khó khăn lớn đối với sự phát triển của các DNNVV. Ở nước ta, nhu cầu thị trường còn rất rộng lớn nhưng sản phẩm lại bị chèn ép bởi các sản phẩm ngoại nhập, thậm chí là sản phẩm nhập lậu, trốn thuế gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động của DNNVV.
4.Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế.
4.1 Tạo ra nhiều sản phẩm, đa dạng về chủng loại thúc đầy tăng trưởng kinh tế.
DNNVV ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng doanh nghiệp ngày càng lớn và phân bổ rộng khắp trong hầu hết các ngành, lĩnh vực. Các DNNVV có xu hướng không cạnh tranh một cách trực tiếp với các doanh nghiệp lớn mà phát triển ở thị trường ngách. Nếu các doanh nghiệp lớn tận dụng lợi thế về quy mô bằng cách đáp ừng nhu cầu chiếm đa số trên thị trường thì thường các DNNVV lại kinh doanh những ý tưởng độc đáo về những sản phẩm đáp ứng thị hiếu của một bộ phận khách hàng mà chưa được quan tâm trên thị trường. Vì vậy, sự xuất hiện của bộ phận DNNVV làm cho hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú, người tiêu dùng có thêm nhiều sự lựa chọn hơn. Hiện nay ở Việt Nam, các DNNVV phát triển ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế đặc biệt là lĩnh vực bán lẻ và dịch vụ. Mỗi năm các DNNVV đóng góp khoảng 28 – 30% GDP của cả nước, trên 30% giá trị sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức bán lẻ, trên 60% tổng khối lượng vận chuyển hàng hóa, 100% giá trị sản lượng hàng hóa của một số ngành nghề thủ công mỹ nghệ như thêu ren, chạm khảm…
Hiện nay, ở Việt Nam công nghiệp thuộc khu vực DNNVV phát triển khá đa dạng phong phú chủ yếu là hàng dệt may, da giầy, vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm, thủy sản, sành xứ thủy tinh, thủ công mỹ nghệ, cung cấp ngày càng nhiều cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Ở Hà Nội, các DNNVV chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, trong khi đó tỷ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh là 12,5%, ở các địa phương khác nói chung khoảng 10%.
Tuy không có nhiều DNNVV có tên trong danh mục các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu hàng hóa tại các cửa khẩu hải quan, nhưng trên thực tế trong một số ngành sản xuất như may mặc, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến thủy hải sản…, các DNNVV đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra giá trị xuất khẩu của ngành thông qua việc thông qua việc tham gia cung ứng nguyên liệu, gia công, chế biến…
4.2 Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhiều DNNVV chủ yếu thành lập tại các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, làm giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này được thể hiện ở mặt sau:
Ngành nghề kinh doanh của các DNNVV tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47%. Bởi lĩnh vực này là lĩnh vực dễ dàng tham gia kinh doanh, vốn đầu tư ban đầu ít, khả năng quay vòng vốn nhanh, trình độ chuyên môn không đòi hỏi cao, ít rủ ro…Công nghiệp chiếm 31 %, ngành xây dựng chiếm 17%; tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống đáng kể chỉ còn chiếm 5%.
Cơ cấu lãnh thổ cũng thể hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111327.doc