Sau hơn 30 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, nền kinh tế nước ta đã rơi vào tình trạng trì trệ, yếu kém, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Từ thực tiễn đó Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo định hướng XHCN, gọi tắt là KTTT định hướng XHCN. Trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đời sống của nhân dân đã được cải thiện một cách rõ rệt. Trong lịch sử hàng nghìn năm của mình, nước ta chưa bao giờ có bước phát triển nhảy vọt về kinh tế như vậy. Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những vấn đề không nhỏ mà nguyên nhân chủ yếu là từ bản thân nền kinh tế, từ bộ máy tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Nếu như chúng ta không sớm khắc phục những nguyên nhân ấy thì nó không chỉ là lực cản đối với sự phát triển mà nó còn làm suy yếu nền kinh tế đất nước. Đây là điều mà chúng ta hết sức quan tâm, nhất là sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Do đó, em đã chọn đề tài “Một số vấn đề nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam”. Với sự hiểu biết còn hạn chế cũng như vì điều kiện nghiên cứu và thời gian còn hạn chế nên em không có tham vọng đưa ra những nhận định mang tính đột phá mà chỉ mong làm rõ được một số vấn đề cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta để thấy được những đặc trưng, thực trạng và tìm ra những giải pháp cụ thể để khắc phục những khuyết tật của nó và tạo điều kiện đưa nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, hội nhập cùng khu vực và thế giới.
Nội dung bài viết của em gồm ba phần:
I. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT định hướng XHCN .
II. Những đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
III. Thực trạng và những giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN.
21 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Một số vấn đề nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sau hơn 30 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, nền kinh tế nước ta đã rơi vào tình trạng trì trệ, yếu kém, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Từ thực tiễn đó Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo định hướng XHCN, gọi tắt là KTTT định hướng XHCN. Trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đời sống của nhân dân đã được cải thiện một cách rõ rệt. Trong lịch sử hàng nghìn năm của mình, nước ta chưa bao giờ có bước phát triển nhảy vọt về kinh tế như vậy. Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những vấn đề không nhỏ mà nguyên nhân chủ yếu là từ bản thân nền kinh tế, từ bộ máy tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Nếu như chúng ta không sớm khắc phục những nguyên nhân ấy thì nó không chỉ là lực cản đối với sự phát triển mà nó còn làm suy yếu nền kinh tế đất nước. Đây là điều mà chúng ta hết sức quan tâm, nhất là sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Do đó, em đã chọn đề tài “Một số vấn đề nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam”. Với sự hiểu biết còn hạn chế cũng như vì điều kiện nghiên cứu và thời gian còn hạn chế nên em không có tham vọng đưa ra những nhận định mang tính đột phá mà chỉ mong làm rõ được một số vấn đề cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta để thấy được những đặc trưng, thực trạng và tìm ra những giải pháp cụ thể để khắc phục những khuyết tật của nó và tạo điều kiện đưa nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, hội nhập cùng khu vực và thế giới.
Nội dung bài viết của em gồm ba phần:
Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT định hướng XHCN .
Những đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Thực trạng và những giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN.
Phần nội dung
I.Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.Quan niệm về KTTT
1.1. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. KTTT là trình độ phát triển cao cuả KTHH, trong đó các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Nói cách khác là các quan hệ hàng hoá - tiền tệ được sử dụng phổ biến.KTHH và KTTT không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Nhưng về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
1.2. KTTT nói chung có những đặc điểm sau:
chịu sự chi phối của những quy luật vốn có của nền KTHH và những phạm trù của nó vẫn phát huy tác dụng như: quy luật cung cầu; quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh ; hàng hoá ; tiên tệ,…
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao.
Giá cả thị trường do thị trường quy định là chủ yếu.
1.3. Lịch sử đã chứng minh KTTT hình thành và phát triển dưới CNTB:
Trong lịch sử phát triển loài người, sản xuất hàng hoá ra đời từ khi tan rã chế độ công xã nguyên thuỷ, nó tồn tại và phát triển trong xã hội nông nô, trong xã hội phong kiến và đạt đỉnh cao trong xã hội TBCN. Nhờ sử dụng các yếu tố kích thích của nền KTTT mà CNTB đã đạt được những thành tựu cả về năng suất, chất lượng hiệu quả và một số mặt về xã hội. Mặc dù còn nhiều khuyết tật, song CNTB đã thật sự đạt được trình độ cao về kinh tế, khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng rằng, KTTT là một trong những yếu tố của quá trình phát triển xã hội, chứ không phải là cái gì đó riêng có của CNTB.
KTTT sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới và càng không phải là xét lại chủ nghĩa Mác–LêNin. C.Mác đã viết: “ Cái xã hội mà chúng ta nói đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó, mà trái lại nó là một xã hội cộng sản vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần – còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”. Chính V.I.Lê-nin đã nhấn mạnh yêu cầu học tập phương thức kinh doanh TBCN. Người cho rằng: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của CNTB thu được”. Một trong những bài học quan trọng nhất mà CNTB đã đạt được là phát triển KTTT .
2.Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Phát triển KTTT là một sự lựa chọn đúng đắn.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử nhất định .
Trong mấy thập niên trước đây, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đặc trưng của cơ chế này là: Nhà nước giao kế hoạch cho các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp với một hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh. Nhà nước giao vật tư, tiền vốn, kỹ thuật và bố trí cán bộ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp của Nhà nước cứ việc sản xuất theo kế hoạch, laĩ nhà nước thu, lỗ nhà nước chịu . Điều đó có nghĩa là đã triệt tiêu mất động lực kinh tế là lợi nhuận. Còn về tiền lương giá cả đều mang tính bao cấp và bình quân. Nhà nước định ra giá cả một cách cứng nhắc và độc quyền, nền kinh tế đã bị hiện vật hoá. Trước đây, mô hình kinh tế hiện vật này được coi là lý tưởng, thì nay bộc lộ những hạn chế và kết quả là vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của CNXH. Trên thực tế, yếu tố kế hoạch tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu.
Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế XHCN tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh , góp phần mang lại thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế thì chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật: Nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất – kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý trí chủ quan đã lấn át ý trí khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái (thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không được thực hiện). Do đó xoá bỏ cơ chế này để chuyển sang cơ chế thị trường là một sự lựa chọn đúng đắn.
Tính tất yếu khách quan tồn tại KTTT.
KTTT không phải là sản phẩm riêng có của CNTB mà nó chỉ phát triển cao dưới CNTB và nó vẫn tồn tại sau CNTB mà cơ sở của nó là :
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng càng ngày phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường .
Do sự tách biệt nhất định về kinh tế giữa các chủ thể kinh tế mà biểu hiện là còn nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó các chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất , nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, phát triển KTTT ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ được.
2.3. KTTT không những tồn tại một cách khách quan mà còn cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH.
Đối với nước ta muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì không còn con đường nào khác là phải phát triển KTHH. KTHH khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động , khuyến khích ứng dụng công nghệ – kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm… Vì vậy, phát triển KTHH được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất.
II. Những đặc điểm cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Nói đến KTTT định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng nó cũng không phải là nền KTTT tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải KTTT TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Mà KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một mô hình tổng quát của thờ kỳ quá độ. Xét về thực chất vẫn là một nền KTHH nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và phát triển theo định hướng XHCN . Mô hình này là một sự kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù . Cái chung ở đây là những quy luật kinh tế vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu , quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh,… và các phạm trù vốn có của KTTT như : hàng hoá, tiền tệ, giá cả, cạnh tranh, cung – cầu,…Còn cái đặc thù chính là “ Tính định hướng XHCN” . Đây là nguyên tắc hết sức cơ bản , để đảm bảo cho nó là vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và sự quản lý vĩ mô của nhà nước ta. Do đó KTTT định hướng XHCN ở nước ta có những đặc trưng bản chất sau:
1. Về mục tiêu phát triển KTTT :
Mục tiêu hàng đầu của phát triển KTTT ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH , nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giầu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Hay nói cách khác, mục đích của phát triển KTTT là làm cho dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
2. Nền KTTT gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
KTTT TBCN luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. KTTT theo định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân ( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể , kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy, phát triển nền KTTT nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của các nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của nhân dân.
Trong nền KTTT nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Mà biểu hiện nội dung vai trò chủ đạo của nó là:
* kinh tế nhà nước có tác dụng mở đường cho sự phát triển các thành phần kinh tế khác.
* Kinh tế nhà nước nêu gương, tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển.
* Vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước còn được thể hiện ở vai trò hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển.
* kinh tế nhà nước tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới – chế độ XHCN ở Việt Nam.
3. Trong nền KTTT định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, có nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại : Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có hình thức phân phối tương ứng với nó, vì thế trong nền KTTT ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau: Phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quỹ, phúc lợi tập thể và xã hội. Trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu, là quy luật, nguyên tắc của XHCN. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN . Vì trong KTTT TBCN nó cũng có nhiều hình thức phân phối nhưng phân phối theo giá trị là chủ yếu.
Nước ta xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN chứ không phải là KTTT TBCN. Chúng ta lấy phát triển KTTT là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.
4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước XHCN.
KTTT luôn có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, đó là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới công nghệ, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, KTTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển…. Về mặt tiêu cực, trên thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị huỷ hoại, khai thác cạn tài nguyên, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hoá xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được đảm bảo, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp, trốn lậu thuế, làm hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất, kinh doanh không đầu tư vào những ngành nghề có lãi ít. Để hạn chế những khuyết tật đó, đòi hỏi nhà nước phải quản lý nền KTHH, KTTT.
Trong cơ chế thị trường TBCN , sự can thiệp của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN . Trong cơ chế thị trường ở nước ta thì sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm sửa chữa “ những thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo, mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, bảo đảm cho nền KTTT phát triển theo định hướng XHCN. Vai trò quản lý của nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. Không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện KTTT .
Nhà nước ta quản lý nền KTTT không phải bằng duy ý chí của mình mà phải tuân theo quy luật của KTTT. Những quyết định của nhà nước phải tương hợp với điều kiện thị trường, thể hiện như sau:
Nhà nước quản lý nền KTTT trên cơ sở luật pháp, các văn bản dưới luật, những quy định, và sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô để dẫn dắt nền KTTT phát triển một cách hiệu quả, đảm bảo sự bình đẳng và phát triển bền vững.
Nhà nước là người mở đường, dẫn dắt các doanh nghiệp thông qua sản xuất những mặt hàng mũi nhọn tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, sản xuất và cung ứng hàng hoá công cộng cho toàn xã hội.
Nhà nước thông qua pháp luật và thuế để bảo vệ môi trường và hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh.
Nhà nước thông qua việc sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô như khối lượng tiền tệ, lãi suất, thuế, đầu tư và các chi tiêu chính phủ, các quỹ quốc gia…. để tác động vào các thời kỳ phát triển kinh tế, nhằm bảo đảm kích thích tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nhà nước thông qua việc hoạch định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng đã lựa chọn.
5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội
Trong sự phát triển của KTHH TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đẵ làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của CNTB. Song, vấn đề đó không bao giờ và không thể giải quyết được triệt để trong chế độ tư bản. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ TBCN, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Còn trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng xã hội. Sự tăng trưởng gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. Vì vậy chúng ta đang phấn đấu xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giầu hợp pháp, thực hiện phân phối công bằng: làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, xã hội phải tạo điều kiện cho mọi người sử dụng hết khả năng lao động của mình. Tuy nhiên đây là một quá trình phấn đấu lâu dài và đầy khó khăn.
6. Sự tăng trưởng kinh tế nước ta phải gắn liền với sự phát triển văn hoá và giáo dục.
Phát triển KTHH gắn với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền KTHH mang bản sắc văn hoá Việt Nam phải thực hiện có hiệu quả và quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng và sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận hoạt động thương mại hoá mọi hoạt động đời sống xã hội mà đề cao những chuẩn mực giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời đấu tranh xoá bỏ những tập tục và lối sống cổ hủ lạc hậu. Kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với sự giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây dựng những nhân tố văn hoá XHCN, làm tăng nhanh sức sống nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh thành nội sinh, nhằm phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế nói riêng và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung. Mỗi bước tăng trưởng của kinh tế tạo điều kiện phát triển văn hoá.Mặt khác, Đảng và nhà nước ta luôn coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Bởi vậy mà chúng ta không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
7. Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập.
Cách mạng khoa học - công nghệ càng phát triển càng làm cho LLSX phát triển đạt trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển KTHH không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước, mà còn phải tính đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền KTHH mỗi quốc gia muốn phát triển thuận lợi không thể không gắn với thị trường thế giới. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển KTTT hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hẹ kinh tế đối ngoại. Phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở rộng ra thị trường mới; cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
III. Thực trạng và giải pháp
1.Thực trạng.
1.1 Trình độ phát triển nền KTTT ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc thì cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2- 3 thế hệ. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó năng suất chất lượng, hiệu quả sản xuất còn rất thấp so với khu vực và thế giới.
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc…còn lạc hậu kém phát triển.
Phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nông nghiệp chiếm 70% lao động xã hội, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
Khả năng cạnh tranh kém, năng suất lao động thấp, khối lượng hàng hoá ít, chủng loại nghèo nàn, chất lượng thấp,…
1.2. Thị trường chưa hình thành đồng bộ.
Hình thành đồng bộ các loại thị trường là yêu cầu khách quan của nền KTTT định hướng XHCN. Đây là trung tâm của KTHH. Thực tiễn ở nước ta thời gian qua cho thấy dù muốn hay không, một khi đã chấp nhận KTTT thì điều cốt lõi nhất vẫn là phải có thị trường. Một khi đã chấp nhận sự hiện hữu của thị trường thì phải có đầy đủ các loại thị trường. Tuy nhiên, trong nền KTTT ở nước ta thì thị trường hình thành chưa đồng bộ và còn yếu kém:
Thị trường chứng khoán: Vẫn còn quá non trẻ và nhỏ bé, nguồn cung ứng còn rất hạn chế; tính chuyên nghiệp chưa cao, khung pháp lý còn thô sơ, thiếu đồng bộ…
Thị trường lao động mới manh nha, nhiều người có sức lao động nhưng không tìm được việc làm hay công việc không phù hợp với chuyên môn…
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp.
1.3. nhiều thành phần tham gia thị trường .
Vì có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường nên nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau: sản xuất hàng hoá XHCN, sản xuất hàng hoá TBCN, sản xuất hàng hoá nhỏ,… Trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
1.4. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế – kỹ thuật còn thấp xa với hầu hết các nước khác.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra cho chúng ta những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan . Nền KTHH của mỗi quốc gia muốn thuận lợi thì không thể
không gắn với thị trường thế giới. Vì vậy, chúng ta phải chủ động hội nhập kinh tế , phải tìm ra cái mạnh tương đối của chúng ta, thực hiện đa phương hoá đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên CNXH.
1.5 Quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu.
Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém; thủ tục hành chính… đổi mới còn chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác hại xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc.
Bộ máy t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50539.doc