Việt Nam là một nước đang phát triển, đang thực hiện và dần hoàn thành chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy chúng ta là nước nông nghiệp lạc hậu nhưng có một sự thuận lợi hết sức to lớn trong việc giao lưu với quốc tế đặc biệt là đối các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đó chính là : Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam Á, trong vòng cung Châu Á - Tây Thái Bình Dương và Việt Nam là một nhiệt đới gió mùa ẩm, nhiều đồi núi. Với những điều kiện thuận này đã giúp cho việc sản xuất và khẩu các mặt hàng chủ lực tiến triển nhanh, đạt tiêu chuẩn về chất lượng. Có thể noicác mặt hàng xuất khẩu của việt nam đã được nhiều nước trên thế giới biết đến như : cà phê, cao su,gạo, dệt may, thuỷ sản Những mặt hàng xuất khẩu trong những năm gần đây lại càng phát triển, đem lại những thành tựu to lớn góp phần sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực diễn ra như thế nào? Chính phủ và các doanh nghiệp đã dùng những biện pháp gì để nâng cao hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong tiến trình hội nhập , xây dựng đất nước. Do vậy em chọn đề tài :”Một số kiến nghị đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ”để phân tích những khía cạnh trên .
Bài viết của em ngoài phần mở đầu và kết luận có 3 ý chính :
I – Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực ở Việt Nam .
II – Tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam .
III – Một số kiến nghị cho xuất khẩu hàng chủ lực của Việt Nam .
16 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bài viết Một số kiến nghị đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang thực hiện và dần hoàn thành chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy chúng ta là nước nông nghiệp lạc hậu nhưng có một sự thuận lợi hết sức to lớn trong việc giao lưu với quốc tế đặc biệt là đối các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đó chính là : Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam á, trong vòng cung Châu á - Tây Thái Bình Dương và Việt Nam là một nhiệt đới gió mùa ẩm, nhiều đồi núi. Với những điều kiện thuận này đã giúp cho việc sản xuất và khẩu các mặt hàng chủ lực tiến triển nhanh, đạt tiêu chuẩn về chất lượng. Có thể noicác mặt hàng xuất khẩu của việt nam đã được nhiều nước trên thế giới biết đến như : cà phê, cao su,gạo, dệt may, thuỷ sản …Những mặt hàng xuất khẩu trong những năm gần đây lại càng phát triển, đem lại những thành tựu to lớn góp phần sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực diễn ra như thế nào? Chính phủ và các doanh nghiệp đã dùng những biện pháp gì để nâng cao hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong tiến trình hội nhập , xây dựng đất nước. Do vậy em chọn đề tài :”Một số kiến nghị đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ”để phân tích những khía cạnh trên .
Bài viết của em ngoài phần mở đầu và kết luận có 3 ý chính :
I – Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực ở Việt Nam .
II – Tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam .
III – Một số kiến nghị cho xuất khẩu hàng chủ lực của Việt Nam .
Nội dung
I- Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của việt nam.
1.Khái niệm .
Ngoại thương là trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua các hoạt động mua bán. Trong hoạt động ngoại thương: xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Toàn bộ hoạt động xuất khẩu trong ngoại thương giữa các nướ hay một nước được là mậu dịch quốc tế hay thương mại quốc tế .
Xuất khẩu là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với mỗi quốc gia hay là đối với cả hai quốc gia .
Xuất khẩu đã thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương diện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở phát triển các hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại của mỗi quốc gia .
2. Quan niệm về xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam .
Hàng xuất khẩu chủ lực là loại hàng hoá được Việt Nam đem bán cho các nước khác trên phạm vi toàn thế giới. Đây là những mặt hàng hàng đầu của chúng ta, được sản xuất và nuôi trồng với số lượng nhiều, chất lượng tốt được người dân trên thế giới tin dùng. Hàng xuất khẩu chủ lực đem lại lợi nhuận cao góp phần to lớn vào sự tăng trưởng GDP của đất nước .
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của việt nam như: dệt may, cao su, giày dép, hạt điều, hạt tiêu, gạo v.v.đều là những mặt hàng rất tốt. Nhìn chung các mặt hàng ngon, đạt chất lượng tốt nhưng vì chúng ta thiếu những trang thiết bị, thiếu kiến thức khoa học nên chưa phát huy tốt được khả năng và sinh trưởng của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Bên cạnh đó thời tiết rất thuận lợi cho một số loại cây trồng nhưng cũng có những trở ngại lớn đối với một số loại cây trồng khác. Các mặt hàng xuất khẩu của chúng ta giá rất rẻ nhưng mẫu mã không được hoàn hảo lắm, phần lớn khi đem trồng cùng giống cây nếu trồng ở Việt Nam thì các củ, quả, hạt lại bé hơn so trồng ở những nước khác, không riêng gì các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà ngay cả nhiều loại cây khác nữa .
Đối với loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê… thì khí hậu việt nam lại là một ưu thế. Cao su và cà phê của ta được thế giới dùng rất nhiều do vậy chúng ta đã xuất khẩu vơí một số lượng tương đối lớn nhiều, một tín hiệu đáng mừng cho kinh tế Việt Nam . Tuy diện tích trồng chưa đáp ứng đủ nhưng như thế cũng là tương đối ổn .
Đối với mặt hàng thuỷ sản thì diện tích nuôi trồng và qui cách chất lượng chưa hợp lý lắm, diện tích chưa đáp đủ nhu cầu của thị trường.Một vấn đề đáng chú ý đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực nữa là: chúng ta sản xuất đem đi xuất khẩu sang các nước khác nhưng trong nước các mặt hàng này rất ít, tất cả những thứ tốt nhất đều đem xuất khẩu do đó dẫn đến một tình trạng là người Việt Nam sản xuất ra những thứ ngon xuất khẩu ra nước ngoài nhưng họ chưa được dùng những thứ loại một, loại ngon nhất mà họ toàn đung những thứ loại hai – lọai kém chất lượng hơn .
Đối với mặt hàng giày dép và dệt may thì đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt được những thành tựu rất to lớn, đứng thứ hai về xuất khẩu trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vịêt nam . Đây là những mặt hàng truyền thống nên duy trì và phát huy xem đây là một mục tiêu cho những mặt hàng kém hơn noi theo .
3. Vai trò của xuất khẩu .
Nền kinh tế việt nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng hhoá đã góp phần quan trọng trong quá trình công nghiệp, hiện đại hoá đất nước .
Đối với nền kinh tế quốc dân :
Xuất khẩu hàng chủ lục có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tê của nước ta nói riêng cũng như toàn thế gới nói chung. Là nôị dung chính của hoạt động ngoại thương và hoạt quan trọng của thương mại quốc tế.
Xuất khẩu hàng chủ lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu của việt nam. Nó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, nó là nền tảng cho nhập khẩu. Mỗi quốc gia có tăng trưởng được hay không, có vị trí trong đấu trường quốc tế hay không và quan trọng nhất là có được lòng tin yêu của khách hàng, bạn hàng trên toàn thế giới hay không đó là nhờ “xuất khẩu hàng chủ lực với chất lượng tốt, giá rẻ, bền, đẹp ”.
Xuất khẩu hàng chủ lực góp phần tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt nam là nước đang phát triển, một trong những rào cản và khó khăn chính đối với tăng trưởng kinh tế là thiếu nguồn vốn. Huy động vốn có nhiều cách như : phát hành trái phiếu , huy động vốn của dân cư, vay vốn… nhưng cách tốt nhất vẫn bằng con đường xuất khẩu .
Xuất khẩu hàng chủ lực tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có liên quan phát triển, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Ngoài ra xuất khẩu còn tạo được điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng sản phẩm góp phần cho sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản xuất trong nước tạo được thế đứng trên thế giới, thu hút vốn đầu tư trong nước và phát triển đầu tư nước ngoài.
Xuất khẩu hàng chủ lực là phương tiện quan trong để thu hút công nghệ kỹ thuật mới từ các nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực sản xuất mới . Đồng thời xuất khẩu hàng chủ lực có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá.
4. Một số vấn đề cần lưu ý trong xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của việt nam .
Việt Nam là nước đang phát triển, cần có nhiều mối quan hệ giao lưu trên toàn thế giới vì vậy xuất khẩu hàng hóa cũng là hướng đi nhanh nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Vì chúng ta tham gia vào thị trường thế giới chưa lâu, kinh nghiệm tĩch luỹ chưa nhiều cho nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc soạn thảo ra một nội dung hợp đồng chính xác, phù hợp với cả hai bên .
Vấn đề vận chuyển hàng hoá đặc biệt quan trọng đối với xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, phải biết tìm cách vận chuyển nhanh nhất mà không làm tổn hại đến hàng hóa, đến quan hệ song phương giữa hai nước.
Để xuất khẩu hàng hoá an toàn đã khó thì việc tìm một đối tác phù hợp, đáng tin cậy lại càng khó hơn .
Chúng ta phải quan tâm đến qui mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Xuất khẩu với số lượng bao nhiêu, hình thức xuất khẩu, phương thức xuất khẩu diễn ra theo kiểu gì để từ đó có thể có những cách vận chuyển hợp lý nhất.
Trước khi xuất khẩu nên tìm hiểu cơ cấu thị trường, tìm hiểu giá cả hàng hoá tăng giảm đến đâu tránh bị lỗ .
II – Tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực
1. Tình hình xuất khẩu .
Giày dép .
Xuất khẩu giày dép của Việt Nam đứng thứ 4 trên giới sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia. Sản lượng giày da Việt Nam đứng thứ 8 trên thế giới. Cả nước hiện có 233 doanh nghiệp sản xuất giày dép các loại trong đó có 76 doanh nghiệp có 76 doanh nghiệp nhà nước, 80 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 71 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng nặng sản xuất giày dép các loại hàng năm đạt khoảng 47,5%; doanh nghiệp nhà nước chiếm 27.5% và doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 25% , sản phẩm giày dép tăng rất nhanh qua các năm. Cùng với sự tăng lên của sản lượng là gia tăng lên của sản lượng là sự gia tăng nhanh chóng mức tiêu thụ giày dép, trong đó xuất khẩu tăng nhanh nhất. Năm 1991 hầu như không xuất khẩu, sang năm 1992 xuất khẩu được 5 triệu USD nhưng cho đến nay sản lượng xuất khẩu đã tăng lên đáng kể, doanh thu lên đến 1.559,5 6triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu năm 1991 so với năm 2002 đă gấp 312 lần, trung bình mỗi năm tăng tới 89,3%. 4 tháng đầu năm 2003 xuất khẩu đạt 825 triệu USD tăng 20,9%, đứng thứ 3 sau dầu thô và dệt may. Giày dép xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu sang thị trường EU. Năm 2002 chiếm 82% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thị trường Mỹ tuy kim ngạch xuất khẩu chưa lớn nhưng là thị trường đầy tiềm năng, sau hiệp định thương mại Việt – Mỹ giày dép là một trong những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc về nhiều mặt như giải quyết công ăn, việc làm cho lao động xã hội – một vấn đề bức xúc hiện nay có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu với kim ngạch khá cao và tăng liên tục .
1.2 Gạo .
Đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì gạo cũng là một trong những mặt hàng dẫn đầu về xuất khẩu. Xuất khẩu gạo đứng thứ hai sau dầu thô. Một đIểm đáng tự hào của Việt Nam là mặt hàng gạo xuất khẩu đứng thứ 2 trên thế giới . Nhìn lại 14 năm xuất khẩu gạo, bên cạnh sự tăng tiến về số lượng, sự tiến bộ về chất lượng và chủng loại là một thực tế rất đáng tự hào. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo tỷ lệ gạo chất lượng trung bình, tỷ lệ tấm cao trên 25% chiếm đến 80% đến 90% do vậy sức cạnh tranh rất kém. Vượt qua những khó khăn và yếu tố kém ban đầu trong 8 năm gần đây (1995 – 2002 ) xuất khẩu gạo nước ta có nhiều khởi sắc. Gạo xuất khẩu tăng nhanh từ 2 triệu tấn năm 1995 tăng lên 4.5 triệu tấn năm 1999. Về chất lượng gạo có tiến bộ hơn rất nhiều (hạt dài, ít bạc bụng ) có tỉ trọng lớn và có xu hương tăng dần, còn hạt tròn, bạc bụng chiếm tỷ lệ tấm cao, tỷ trọng bé có xu hướng giảm dần . Chính vì vậy gạo xuất khẩu của chúng ta đến năm 1999 đã đứng vững trên thị trường khó tính EU, Bắc Mỹ và khu vực ĐNá. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm (1998 – 2001) là 326 triệu USD / tấn, tăng 63USD / tấn so với giá trung bình 9 năm trước. Do sản lượng tăng và giá cũng tăng nên thu nhập về xuất khẩu gạo tăng nhanh từ 530 triệu USD năm 1995 tăng lên 868 triệu USD năm 1996, 891 triệu USD năm 1997, 1.024 tỷ USD năm 1998, năm 1999 là trên 1.025 tỷ USD, năm 2000 khoảng 700 triệu USD, năm 2001 dù giá gạo giảm nhưng vẫn đạt trên 600 triệu USD cho đến năm 2002 xuất 320 triệu tấn giảm 13.1% về lượng nhưng do giá cao lên doanh số vẫn tăng 13,9% . Có thể nói trong 14 năm xuất gạo nước ta đã thu về trên 8 tỷ USD đạt 572 triệu USD / năm, một đóng góp rất lớn vào thu nhập nền kinh tế quốc dân, cải thiện mức sống cho người dân và khuyến khích nông dân sản xuất . Nhưng một điều đáng tiếc cho mặt hàng gạo của ta vẫn chưa có thương hiệu trên thế giới .
Nói một cách đơn giản thì cao su là nguyên liệu rất quan trọng đối với các mặt hàng có liên quan vì vậy trong tương lai chắc chắn ngành cao su Việt Nam sẽ phát triển hơn rất nhiều .
1.3 Dệt May .
Ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng góp một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước. Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8% năm, đứng thứ 3 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu sau dầu thô và gạo. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 23 tỷ USD gấp 16,9% lần so với năm 1992 chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Năm 2001 xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, tăng trên 5% so với năm 2000. Trong đó kim ngạch xuất khẩu vào EU chiếm trên 30% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Xuất khẩu chủ yếu theo phương thức gia công nên các doanh nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào đơn đặt hàng của nước ngoài hoặc xuất khẩu thông qua thứ 3. Trong 3 năm gând đây chỉ dao động ở mức 600 USD / năm . Theo thống kê đến hết quí I năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang tất cả các thị trường đạt gần 500 triệu USD tăng 15% so với cùng kì năm 2002 trong đó thị trường EU đạt 100 triệu, thị trường Nhật đạt 200 triệu, thị trường Mỹ là 50 triệu
Nhìn chung xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các khu vực có thị trường sử dụng hạn ngạch và phi hạn ngạch có tăng nhưng tăng chưa tương xứng với tiềm năng. Hàng dệt may của chúng ta có thể có thể tiến xa hơn, sản xuất ra nhiều hơn và xuất khẩu nhiều hơn trong những năm gần đây.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực .
2.1 Thuận lợi .
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn như hiện nay cũng là nhờ những thuận lợi nhất định .
Việt Nam mới tham gia vào AFTA – một tổ chức cắt giảm thuế đối với hàng xuất khẩu cho nên xuất khẩu các mặt hàng chủ lực sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn.
Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang EU, ASEAN, Mỹ, Nhật, Singapore… Đây là những thị trường đầy tiềm năng. ở những thị trường Châu á có một loạt chính sách xuất khẩu được cải thiện. Bên cạnh đó thị trường EU đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU tăng cả lượng lẫn giá trị. Mặt khác thị trường EU không khống chế hạn ngạch đối với hàng Việt Nam một trong những tín hiệu rất đáng mừng .
Đặc biệt chúng ta có một lợi thế rất lớn trong lĩnh vực xuất gạo – mặt hàng chủ lực của nước ta đứng thứ 2 trên thế giới vì hiệu quả kinh tế – xã hội – quốc phòng – an ninh và môi trường của sản xuất và xuất khẩu gạo cao, hiệu quả này không chỉ trước mắt mà còn lâu dài. Nhà nước tăng cường hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại. Thị trường xuất khẩu đã mở rộng tới hơn 100 quốc gia. Trong thời gian này nhà nước sẽ chi khoảng 30 triệu USD để hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp sẽ đực hỗ trợ một số hoạt động như thông tin thương mại, tư vấn xuất khẩu, hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, quảng bá thương hiệu, nhằm từng bước xây dựng cơ cấu xuất khẩu hiệu quả nhất .
2.2 Khó khăn .
Bên cạnh những thuận lợi hàng xuất khẩu chủ lực của chúng ta còn gặp rất nhiều những khó khăn .
Khó khăn lớn nhất là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đánh giá mới đây cuả diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam chỉ xếp thứ 10 trong số 11 nền kinh tế Châu á về năng lực cạnh tranh .
Năng lực sản xuất hàng xuất khẩu, những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu còn chưa mạnh. Tuy tổng kim ngạch của những mặt hàng này có thể cao nhưng giá trị gia tăng và hàm lượng nội địa còn thấp. Nguyên vật liệu đầu vào chưa nhiều, ngành sản xuất giày dép, dệt may, thép… vẫn phụ thuộc từ nhập khẩu nước ngoài. Nguyên liệu sản xuất trong nước chưa có hoặc chất lượng còn thấp, gía thành còn cao so với hàng nhập. Mặt khác, tuy tăng trưởng công nghệp nói chung đạt gần 15% mỗi năm nhưng chủ yếu do tăng về chi phí sản xuất, chứ không phải do tăng năng suất lao động hay áp dụng công nghệ mới . Do đó, hiệu quả cảu sản xuất và tính cạnh tranh của sản phẩm không cao.
Mạng lưới thu mua vận chuyển vẫn phụ thuộc vào tư thương, tình trạng bị ép cấp, ép giá vẫn diến ra đậm nét do một số mặt hàng đã bị mất thương hiệu như :cà phê…
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém phân bố không đều. Máy móc thiết bị số lượng ít chưa đáp ứng đủ nhu cầu .
Vấn đề điều hành xuất khẩu các mặt hàng chủ lực cũng còn nhiều bất cập: có sự cạnh tranh giữa các địa phương trong cùng mặt hàng xuất khẩu.
Bão lụt hạn hán cũng ảnh hưởng lớn đến sản lượng của các mặt hàng xuất khẩu.
Trong tương lai chúng ta nhất định sẽ khắc phục những khó khăn này và lợi dụng những thuận lợi để tăng khả năng xuất khẩu hàng chủ lực và một số các mặt hàng xuất khẩu khác.
III – Một số kiến nghị cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam .
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng chủ lực chính phủ và các doanh nghiệp đã có những biện pháp trước mắt và lâu dài cho hoạt động này.
Qui hoạch và phát triển các mặt hàng chủ lực.
Chính phủ đã có những chính sách kịp thời về vấn đề này, đây là vấn đề rất cần thiết đối mặt hàng xuất khẩu. Đầu tiên qui hoạch tổng thể những vùng nào có lợi thế về lĩnh vực nào thì phát triển và duy trì mặt hàng đó, đầu tư vốn và trang thiết máy móc tăng sản lượng hàng hoá xuất khẩu. Thứ hai qui hoạch chi tiết có nghĩa là vùng nào nuôi trồng loại nào thì cần bao nhiêu ha đất, phân bố cho từng bộ phận sản xuất nhỏ làm công việc gì ? ở đâu ? như thế nào ? còn những vùng nào không có lợi thế thì phải chuyển đổi cơ cấu, thay đổi cách làm việc và những phương thức hoạt động từ trước đến nay để tạo một lợi thế cạnh tranh.
Sau khi thu hoạch xong chính phủ sẽ tìm kiếm thị trường tiêu thụ thông qua chương trình xúc tiến thương mại để xuất khẩu hàng hoá. Nâng cao chất lượng giá thành của sản phẩm và thị trường đầu ra.
Một vấn đề quan trọng đó là xây dựng kho dự trữ vì Việt Nam chưa có một kho dự trữ lớn nào để lưu trữ hàng hoá xuất khẩu. Đây là vấn đề rất quan trọng, hàng hóa làm ra phải có nơi khô ráo thoáng mát để cất nếu không hàng sẽ nhanh hỏng, chất lượng kém do vậy chúng ta phải xây dựng một kho dự trữ để bảo quản hàng hoá .
Mở rộng phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ lực.
Bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường chính như : EU, Nhật, Trung Quốc, ASEAN việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa chủ lực phải mang tính đa phương hoá, ưu tiên mở rộng các thị trường mới như Canada, Trung Đông… đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Đông Nam á này. Ta chỉ duy trì ở mức nhất định để tạo quan hệ giao lưu giữa hai nước với nhau, còn để kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn thì chúng ta nên thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU…Nhà nước đàm phán mở rộng thị trường, về vấn đề tăng hạn ngạch đối các mặt hàng xuất khẩu, để giải quyết vấn đề này các nhà doanh nghệp nên thực hiện những chiến lược sau:
Trước hết là giảm chi phí sản xuất cho một số ngành chủ lực như:giày dép, dệt may v.v bằng cách cung cấp đầy đủ nguyên phụ liệu, ta nên phát triển sản xuất phụ liệu bằng công nghệ tiên tiến đảm bảo chất lượng tốt cho sản phẩm. Có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước. Còn đối với một số cây công trồng của Việt Nam như: gạo, chè, cà phê, hạ điều, hạt tiêu…thì các doanh nghiệp phải xây dựng và sớm hoàn chỉnh để áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001 và ISO 14000.
Thứ hai tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực hay là bất kỳ một mặt hàng nào xuất khẩu cũng đều phải tạo lập cho mình một thương hiệu : Muốn xuất khẩu trực tiếp thì các mặt hàng, các sản phẩm cần có nhãn hiệu riêng của mình.
Thứ ba các doanh nghiệp phải biết tự quảng bá sản phẩm cuả mình trên toàn thế giới, chúng ta phải biết quảng bá cho các sản phẩm cho mình, đưa sản phẩm của mình đến những nơi nào mà họ chưa biết, khẳng định vị thế với họ bằng chất và quy cách làm ăn của ta .
Bằng cách này hay cách khác việc mở rộng thị trường xuất khẩu đối với nước ta có ý nghĩa lớn.
3. Đa dạng hoá các hình thức và phương thức xuất khẩu hàng chủ lực .
Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu hàng chủ lực có nghĩa là hàng xuất khẩu của chúng ta phải tìm được hình thức xuất khẩu tiện cho ta nhất, có thể xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là các nhà sản xuất và kinh doanh bán hàng trực tiếp cho người mua nước ngoài hoặc mua hàng trực tiếp, từ người sản xuất hay kinh doanh nước ngoài không qua trung gian. Xuất khẩu gián tiếp là xuất khẩu qua trung gian thương mại. Mỗi doanh nghiệp nên lựa chọn hình thức xuất khẩu có lợi nhất cho mình
Đa dạng hoá phương thức xuất khẩu hàng chủ lực có nghĩa là ta xuất khẩu bằng phương tiện gì ? vận chuyển bằng đường biển, đường sông, hay đường không …chúng ta nên chọn phương tiện vừa rẻ lại an toàn cho hàng hoá xuất.
Đa dạng hoá hình thức và phương thức xuất khẩu hàng chủ lực sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm chi phí vận chuyển xuống mức tối thiểu vừa nhanh lại vừa đảm bảo chất lượng.
4. Đầu tư và hỗ trợ của nhà nước cho mặt hàng xuất khẩu .
Được sự đầu tư và hỗ trợ của nhà nước cho mặt hàng xuất khẩu là một việc hết sức thuận đối với mỗi doanh nghiệp khi xuất khẩu.
Chính phủ có chính sách hỗ trợ về giống, về phương thức. Đầu tiên khi nuôi trồng một loại giống mới thì chính phủ sẽ hỗ trợ về giống cho các vùng đã qui hoạch để họ nghiên cứu, tìm ra một loại giống tương tự nhưng với giá cả thấp hơn so với hàng nhập khẩu sẽ giảm chi phí hơn. Chính phủ hướng dẫn phương thức nuôi trồng đạt hiệu quả cao nhất, chất lượng tốt mà thu hoạch lại cao.
Đối với các mặt hàng như da giày, dệt may…thu hút đầu tư cho sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép giảm chi phí đầu vào như đã trình bày tại đề án phát triển xuất khẩu ngành da giày.
Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng (như đường sá, điện nước, xử lý ô nhiễm môi trường), Hỗ trợ chính sách về đào tạo lao động.
Nhà nước hỗ trợ vốn cho nông dân để cải tạo vườn, mua sắm các trang thiết bị. Đồng thời hỗ trợ tín dụng cho tạm nhập nguyên vật liệu để chế biến xuất khẩu.
ở mặt hàng rau quả nhà nước tiếp tục hỗ trợ kinh phí để nhập khẩu công nghệ mới phục vụ cho biến.
Đặc biệt nhà nước nên đầu tư cho khâu sơ chế sau thu hoạch để đảm bảo độ đồng đều và chất lượng của sản phẩm từ đó tăng giá trị hàng xuất khẩu .
5. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu hàng chủ lực .
Bên cạnh sự đầu tư và hỗ trợ của mình phục vụ cho xuất khẩu thì chính phủ nên tiếp tục triển khai Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 “về một số chính sách khuyến khích phát triển các ngành nghề”. Do đó, để phát triển bền vững phải có chính sách của nhà nước với tư tưởng xuyên suốt trong đó là “tối đa hoá sự trợ giúp, tối thiểu hoá việc huy động, đIều tiết các ngành nghề”qua kênh tài chính, phân phối thu nhập. Trên tinh thần đó những chính sách và cơ chế quản lý cần phải thực hiện là :
Thứ nhất, phần đầu tư cho các mặt hàng xuất khẩu phải tương xứng với đóng góp GDP của các mặt hàng. Phần đầu tư này chủ yếu dành cho phát triển và xây dựng cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học, phát triển y tế, giáo dục .
Thứ hai, Tạo và khai thông các nguồn đầu tư trong dân bằng cách điều tiết quan hệ tỷ giá giữa hàng hoá và dịch vụ đầu vào.
Thứ ba, thực hiện thuế xuất khẩu bằng 0% đối với sản phẩm hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản, công nghệp, ngành nghề(dệt may …)
Thứ tư, cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan để có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ, nghiêm khắc hơn với những doanh nghiệp vi phạm để bảo vệ uy tín của mặt hàng xuất khẩu.
Kết luận
Có thể nói trong những năm qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang trên đà thắng lợi, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, chúng ta cần phải duy trì và phát huy nó vững mạnh hơn, tạo được tiếng vang trên thị trường quốc tế, để lại những ấn tượng sâu đậm mỗi khi dùng sản phẩm của mình. đất nước Việt Nam nói riêng cũng như các nước khác trên toàn thế giới nói chung muốn tham gia hội nhập kinh tế, trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới thì đều phải coi trọng vấn đề xuất khẩu, vì nó góp phần rất lớn tới sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Bằng con đường xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà nền kinh tế nước ta tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Trải qua bao nhiêu khó khăn và gian khổ, bị cấm vận rồi lại bị đặt hạn ngạch …chúng ta vẫn không ngại khó vươn lên. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu nay chúng ta trở thành một trong những nước lớn mạnh trong khu vực. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, những thuận lợi và khó khăn đã được em phân tích ở trên đều là nền tảng cho em sau này. Em đang là sinh viên trường quản lý kinh doanh thì những kiến nghị trên như : qui hoạch và phát triển các mặt hàng chủ lực, mở rộng thị trường, đa dạng hoá các hình thức và phương thức xuất khẩu, đầu tư và hỗ trợ của nhà nước cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực và hoàn thiện chính sách xuất khẩu hàng chủ lực lại là một bàn đạp vững chắc càng khiến em khẳng định hơn chỉ bằng con đường xuất khẩu thì đất nước ta mới phát triển nhanh được.Với những vốn kiến thức phong phú được học về quản lý và kinh doanh ở trường em tin rằng khi ra trường mình sẽ là một con người có ích cho xã hội .
Tài liệu tham khảo :
Giáo trình Ngoại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61103.doc