Bài viết Một số điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện đại hội xi của đảng

Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những điểm mới ấy. Đó là: 1, Về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 2, Thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua; 3, Những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

doc91 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Một số điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện đại hội xi của đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Triết học số 3 (238) năm 2011 MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM QUA VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG NGỌ VĂN NHÂN (*) Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những điểm mới ấy. Đó là: 1, Về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 2, Thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua; 3, Những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ ngày 12/1/2011 đến ngày 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Nhiều chủ đề nêu trong các văn kiện này đang được các cơ quan, ban, ngành triển khai quán triệt và học tập nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập và phân tích một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đưa ra trong các văn kiện này. Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng, tổ chức và vận hành theo thể chế Nhà nước pháp quyền.(*)Đây là chủ trương, đường lối có tính chiến lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó bao gồm: Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển xã hội theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là nhân tố không thể thiếu trong việc đảm bảo sự ổn định chính trị, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, tạo điều kiện cho người dân thực hành các quyền tự do dân chủ, hướng tới xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó đồng thời cũng là những phẩm chất đảm bảo cho xã hội phát triển theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững. Từ những yêu cầu trên đây, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994), Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền như một điều kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”(1). Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(2). Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(3). Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các văn kiện Đại hội của Đảng, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quan điểm của Đảng ta: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Qua khảo sát, tìm hiểu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994) cho đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, có thể rút ra một số điểm mới được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Thứ nhất, quan niệm về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thể hiện tại các văn kiện, nghị quyết khác nhau của Đảng và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng cơ bản đó đã được khái quát một cách cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) có ghi rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”(4). So sánh với quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có thể khẳng định rằng, luận điểm được nêu trong Văn kiện Đại hội XI là luận điểm thể hiện đầy đủ và tập trung nhất các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cái mới của luận điểm trên thể hiện ở chỗ, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước còn phải có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể coi đây là sự bổ sung thêm một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Thứ hai, đối chiếu giữa Báo cáo chính trị tại các Đại hội IX, Đại hội X với Báo cáo chính trị tại Đại hội XI, chúng ta thấy rằng, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ dành một mục nhỏ “1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” ở phần “IX- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”(5) để nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, vấn đề này được đề cập tại mục    “2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở phần “XI- Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(6). Còn trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI, Đảng ta đã dành hẳn một phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để chuyên bàn về vấn đề này. Điều đó cho thấy, trước hết, về mặt hình thức trình bày, Đảng ta đã dành sự chú ý thỏa đáng và sự quan tâm sâu sắc hơn đối với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ ba, đánh giá về thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong những năm qua, Văn kiện Đại hội XI đã ghi nhận: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên”(7). Tuy nhiên, Đại hội XI cũng thẳng thắn, nghiêm túc đánh giá, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”. Những hạn chế cụ thể được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XI là: “Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm...”(8). Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên đây, như Văn kiện Đại hội XI đã chỉ ra, ngoài các nguyên nhân khách quan, nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là các nguyên nhân chủ quan, như công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói chung, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới, trong đó có vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, còn hạn chế, thiếu thống nhất. “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập”(9). Các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và khả thi chưa được xác định đầy đủ, rõ ràng và chậm được triển khai trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Việc chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm đó là một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XI cần được ghi nhận; bởi lẽ, trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề này hầu như chưa được đề cập đến. Đây cũng chính là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng ta đề ra những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp cơ bản cần triển khai nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm tới. Thứ tư, từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc xây dựng Nhà nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những giải pháp cụ thể gồm: 1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Trước tiên, phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: không chỉ là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà còn phải “bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”; không chỉ là Nhà nước quản lý, điều hành theo pháp luật, mà còn phải “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”; không chỉ là nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà còn phải “nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; không chỉ là đề cao vai trò của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, mà còn phải “tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”(10)... (những chữ in nghiêng là do tác giả nhấn mạnh). Điểm mới ở đây là, cùng với yêu cầu nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI còn chỉ ra những nhiệm vụ thiết thực, cụ thể nhằm từng bước hiện thực hóa việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là khâu then chốt đảm bảo sự thành công của việc xây dựng, sự vận hành có hiệu lực, hoạt động có hiệu quả cao của Nhà nước pháp quyền xã hội hội nghĩa Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Văn kiện Đại hội XI đã đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước: Thứ nhất, “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất...”. Muốn đạt được mục đích đó, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội cần có sự đổi mới, hoàn thiện về cơ chế để cử tri có thể lựa chọn và bầu được những người đủ đức, đủ tài, xứng đáng trở thành đại biểu của nhân dân trong Quốc hội. Thực tiễn công tác chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XIII đang đặt ra yêu cầu này. Vấn đề gia tăng tính dân chủ, công khai, đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở trong các phiên thảo luận và hoạt động chất vấn trên diễn đàn Quốc hội cũng phải được chú trọng và tăng cường hơn nữa. Thứ hai, “tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống...”. Đây cũng đang là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đời sống pháp luật, khi mà các luật, pháp lệnh của Nhà nước cứ phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật thì cần phải tăng cường hoạt động khảo sát thực tiễn các quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh; làm thật tốt công tác dự báo pháp luật. Thứ ba, “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Từ sự nghiên cứu đó, có lẽ, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) theo hướng mở rộng, tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước là một giải pháp cần được tính đến. Thứ tư, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ...”. Chính phủ là cơ quan hành pháp nên có vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năng lực của chính phủ, của từng thành viên chính phủ trong việc dự báo, ứng phó, giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... mới nảy sinh sẽ là điểm mấu chốt trong thực hiện giải pháp này. Thứ năm, “đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân...”. Thực tế cho thấy, dù đã thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt tiến trình cải cách hành chính, trong đó có các thủ tục hành chính; song, kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang đặt ra đòi hỏi phải chuyển hoàn toàn từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính vì dân, phục vụ nhân dân. Thứ sáu, “đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người...”. Đối với nội dung này, Văn kiện Đại hội XI nêu ra một loạt vấn đề cần tập trung làm tốt hơn trong thời gian tới, như hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp; đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp... Thứ bảy, “tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương...”(11); trong đó, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp phải là vấn đề được chú trọng hàng đầu; đồng thời, tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Thực ra, những giải pháp cụ thể trên đây đã từng được Đảng ta đề cập trong các Văn kiện Đại hội IX và X, nhưng chúng không gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc đưa tất cả các giải pháp trên tập trung vào phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong Văn kiện Đại hội XI cho thấy, Đảng ta quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước - một trong những nhân tố đảm bảo cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là một điểm mới của Văn kiện Đại hội XI. 3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới Đội ngũ cán bộ, công chức là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải được đội ngũ cán bộ, công chức triển khai trên thực tế thì mới có thể đi vào trong đời sống xã hội. Họ là những người trực tiếp chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới vừa là nhiệm vụ, vừa là giải pháp hết sức quan trọng của quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân”(12). Trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cũng đã được Đảng ta đề cập nhiều lần, nhưng còn ít gắn với nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn trong Văn kiện Đại hội XI, việc tách riêng vấn đề này và đặt nó là một trong bốn nội dung gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứng tỏ rằng, Đảng ta đã và đang hết sức coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí Nhận thức một cách sâu sắc những tác hại nghiêm trọng mà nạn tham nhũng gây ra đối với sự tồn vong của một chính thể, đang thực sự là nguy cơ đối với công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã phát động cuộc chiến chống tham nhũng. Vấn đề đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng ta đề cập trong các văn kiện Đại hội IX và X, nhưng không trực tiếp gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nay, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta coi việc tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là một trong những nội dung không thể thiếu của việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là một điểm mới và hoàn toàn hợp lý; bởi lẽ, tham nhũng được coi là một thứ “quốc nạn”, một thứ “giặc nội xâm”, gây phương hại đến tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. “Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài”(13) trong quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tóm lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương, đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức, quan điểm của Đảng ta về các đặc trưng cơ bản, về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, phát triển và hoàn thiện dần qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội XI chứa đựng nhiều điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cả trên phương diện hình thức trình bày, cách diễn đạt, cả trên phương diện nội dung các đặc trưng cơ bản, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, những nội dung liên quan đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu trong Văn kiện Đại hội XI là sự thể hiện bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (13) ******************** (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132. (2) Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.178. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại  biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.85-86. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131. (6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125-126. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.159. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.171-172. (9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.179-180. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246-247. (11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.248-251. (12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.252. (13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.252-253. CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I.LÊNIN VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG TA VŨ TRỌNG DUNG (*) Đưa ra và luận giải những nội dung căn bản trong chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa to lớn của nó không chỉ đối với công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở nước Nga Xôviết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, mà còn đối với công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm đổi mới, tác giả đã khẳng định chủ trương phát triển nền kin

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTạp chí Triết học số 3 (238) năm 2011.doc
Tài liệu liên quan