tháng trước, vào tháng 3/2008 các nhà đầu tư nước ngoài nắm
trong tay khoảng 4 tỉ Đô la Mỹ trái phiếu của Việt Nam. Hiện nay
lượng trái phiếu họ sở hữu giảm 10 lần, còn chừng 400 triệu Đô
la Mỹ.
Không nghi ngờ, các tổ chức nước ngoài là “những tay chơi lớn”
trái phiếu. Nhưng vị trí đứng đầu, tay chơi lớn nhất của thị trường
trái phiếu lại không thuộc về họ, mà thuộc về một tổ chức tín
dụng nội địa: Ngân hàng Á Châu.
“Tay chơi lớn” không đứng yên
Trong số 2.556 tỉ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2008 của ACB,
hơn 1.000 tỉ đồng có được từ kinh doanh trái phiếu. Một nhà
nghiên cứu kinh tế và quản lý quỹ ở Úc, Tiến sĩ Lê Hồng Giang,
nhận xét để có được khoản lợi nhuận ấy, ACB đã phải mua vào
lượng trái phiếu tương đương 80.000 - 100.000 tỉ đồng.
10 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bài viết Kinh doanh trái phiếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh doanh trái phiếu
tháng trước, vào tháng 3/2008 các nhà đầu tư nước ngoài nắm
trong tay khoảng 4 tỉ Đô la Mỹ trái phiếu của Việt Nam. Hiện nay
lượng trái phiếu họ sở hữu giảm 10 lần, còn chừng 400 triệu Đô
la Mỹ.
Không nghi ngờ, các tổ chức nước ngoài là “những tay chơi lớn”
trái phiếu. Nhưng vị trí đứng đầu, tay chơi lớn nhất của thị trường
trái phiếu lại không thuộc về họ, mà thuộc về một tổ chức tín
dụng nội địa: Ngân hàng Á Châu.
“Tay chơi lớn” không đứng yên
Trong số 2.556 tỉ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2008 của ACB,
hơn 1.000 tỉ đồng có được từ kinh doanh trái phiếu. Một nhà
nghiên cứu kinh tế và quản lý quỹ ở Úc, Tiến sĩ Lê Hồng Giang,
nhận xét để có được khoản lợi nhuận ấy, ACB đã phải mua vào
lượng trái phiếu tương đương 80.000 - 100.000 tỉ đồng.
So với tổng tài sản 112.000 tỉ đồng của ACB vào thời điểm giữa
năm 2008, con số trái phiếu trên quả rất lớn. Ông ước đoán đến
nay trái phiếu vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu trong 70% tổng tài sản còn
lại của ACB, vì dư nợ của ngân hàng này vào cuối tháng 12/2008
chỉ có 34.000 tỉ đồng, bằng 30% tổng tài sản.
“Quyết định dồn tiền mua trái phiếu là một quyết định khôn
ngoan, phù hợp với phong trào “deleveraging” (đảo ngược đòn
bẩy) của các ngân hàng thế giới năm ngoái”, Tiến sĩ Giang viết.
Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh trong thời gian tới ACB có thể
phải chịu rủi ro lãi suất khá cao vì tập trung tài sản quá nhiều vào
trái phiếu.
Tiến sĩ Giang không phải không có lý. Song trên thực tế, ACB
không phải là “tay chơi” nửa chừng. Thay vì để trái phiếu nằm bất
động một chỗ, ACB đã liên tục đẩy nhanh vòng quay trái phiếu,
mua bán - bán mua có khi trong ngày với khối lượng giao dịch
hàng ngàn tỉ đồng.
ACB đã tận dụng tối đa sự chênh lệch đáng kể của lợi tức trái
phiếu trong những tháng 5-8 năm 2008. Lúc bấy giờ, khi lãi suất
lên đến 21%/năm, ACB là một trong hai đơn vị có thanh khoản
lớn (cùng với Vietcombank) và các tổ chức cần thanh lý trái phiếu
đã chào cho ngân hàng này mức lợi tức không ngờ. Mua và ngay
lập tức hiện thực hóa lợi nhuận khi có điều kiện, ACB đã dồn vốn
cho trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng chính sách, trái
phiếu BIDV với mức lợi tức thấp nhất 15%/năm, cao nhất
25%/năm.
“Chúng tôi biết nguồn để mua trái phiếu giá rẻ và “lướt sóng” bán
sau vài ngày”, một quan chức ACB tiết lộ. ACB đã sử dụng một
lượng thanh khoản lớn cho trái phiếu, và để thanh khoản đó trong
vòng quay, do đó ngay cả trong những ngày cao điểm, lượng trái
phiếu mà ngân hàng này nắm giữ chỉ khoảng 25.000 tỉ đồng.
Hiện giờ ACB còn bao nhiêu trái phiếu? Số dư trái phiếu trên
bảng cân đối tài chính (balance sheet) mà chúng tôi có được đến
ngày 7/3/2009 cho thấy ACB còn 10.129 tỉ đồng, trong đó trái
phiếu kỳ hạn từ năm năm trở lên hơn 4.000 tỉ đồng.
Ngoài ra ACB hiện đang sở hữu 1.263 tỉ đồng trái phiếu của tổ
chức tín dụng (loại trái phiếu này có mức chiết khấu cao hơn và
kỳ hạn ngắn, phổ biến dưới ba năm - PV). Như vậy, so với tổng
tài sản, trái phiếu chiếm một tỷ lệ không quá lớn. Điều đáng nói là
trái phiếu giúp ACB có thanh khoản cần thiết ngay lập tức khi thị
trường biến động thông qua các hoạt động thị trường mở và liên
ngân hàng.
Trái phiếu ngoại tệ: lãi suất bao nhiêu?
Trái phiếu là một yếu tố tạo đột biến trong cơ cấu lợi nhuận của
ACB và một số tổ chức tín dụng năm ngoái. Nhưng nó là một yếu
tố không bền vững, chỉ phát huy tác dụng khi thị trường biến
động.
Hiện với lợi tức 8,5-9%/năm, trái phiếu không có “sóng” cho các
tổ chức “lướt”. Mối quan tâm của các “tay chơi” bây giờ là liệu
Chính phủ sẽ phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước trong
tháng 3/2009 như thế nào.
Từ trước đến nay, các ngân hàng Việt Nam vẫn gửi ngoại tệ ở
nước ngoài. Hiện họ vẫn gửi ở những địa chỉ có độ an toàn cao
với lãi suất hơn 2%/năm cho kỳ hạn 12 tháng. Mức lãi suất đó rõ
ràng không hấp dẫn.
Kinh doanh ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng lại càng không
hấp dẫn khi theo thông báo mới nhất của Ngân hàng Nhà nước,
lãi suất vay Đô la Mỹ qua đêm là 0,54%/năm, một tuần
1,04%/năm, một tháng 1,28%/năm, ba tháng 2,02%/năm, sáu
tháng 1,94%/năm.
Trong khi tốc độ tăng trưởng huy động vốn bằng ngoại tệ đang
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng huy động tiền đồng, ngân hàng lại
không thể đẩy mạnh đầu ra ngoại tệ. Doanh nghiệp ngại vay
ngoại tệ vì rủi ro tỷ giá. Cho nên, lúc này huy động ngoại tệ càng
nhiều, ngân hàng càng có nguy cơ lỗ.
Trong bối cảnh đó, phát hành trái phiếu ngoại tệ đồng nghĩa với
việc huy động được nguồn vốn rẻ trong nước. Nếu phát hành trái
phiếu quốc tế, Nhà nước phải trả một mức lãi suất cao bởi trái
phiếu chính phủ Việt Nam đang được giao dịch trên thị trường
thế giới với mức lợi tức khoảng 10%/năm. Những tổ chức nước
ngoài nhận tiền gửi của các ngân hàng Việt Nam sẽ dùng chính
nguồn tiền đó để mua trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ và họ lợi
cả hai đầu.
Vấn đề còn lại, lãi suất trái phiếu ngoại tệ bao nhiêu là hợp lý?
Khi lãi suất huy động Đô la Mỹ kỳ hạn 12 tháng của các ngân
hàng hiện trên dưới 3%/năm, thì lãi suất trái phiếu chính phủ nên
ở mức 3,5-4%/năm. Chính phủ đã đưa ra hạn mức phát hành 1 tỉ
Đô la Mỹ trái phiếu ngoại tệ năm nay, và việc phát hành sẽ chia
làm nhiều đợt. Đợt thí điểm đầu tiên, theo giới tài chính, nên ở
mức 100 triệu Đô la Mỹ.
Nhìn từ góc độ Nhà nước, phát hành trái phiếu ngoại tệ không
phải không có rủi ro. Trong trường hợp tỷ giá thay đổi, ngân sách
sẽ phải trả thêm một khoản chênh lệch nếu tính ra tiền đồng.
Nhưng nhìn xa hơn, cho dù phát hành trong hay ngoài nước,
khoản chênh lệch này cũng vẫn phải trả. Chỉ có điều phát hành
trong nước lợi hơn vì lãi suất trái phiếu chắc chắn thấp hơn.
Và điều quan trọng khác là nguồn tiền thu được từ phát hành trái
phiếu ngoại tệ phải được sử dụng cho những hoạt động kinh tế
có nguồn thu ngoại tệ như xuất khẩu, hoặc nhập khẩu máy móc,
nguyên vật liệu thiết yếu.
Nếu tăng cường giải ngân ngân sách (trong đó có nguồn từ trái
phiếu) mà không tạo ra nguồn thu hiệu quả, không có cơ chế
kiểm soát tiền ra và hút tiền về, thì sẽ phải phát hành trái phiếu
tiếp, vay tiếp, trả lãi tiếp... và “vòng xoáy trái phiếu” sẽ không có
điểm dừng!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_doanh_trai_phieu.pdf