Trải qua hơn 10 năm nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế nước ta đã và đang trở thành quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các doanh nghiệp vận hành theo cơ chế này luôn phải đương đầu với những thách thức từ phía thị trường đưa lại. Nắm bắt hiểu biết về thị trường để có những chính sách thỏa mãn nhu cầu thị trường đã là bí quyết thành công của nhiều doanh nghiệp. Ngày nay các công ty thành công trong kinh doanh là những công ty có định hướng kinh doanh theo thị trường. Do đó có thể thấy thị trường là yếu tố không thể thiếu đối với hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi một lĩnh vực kinh doanh gắn liền với một thị trường nhất định. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh là một yếu tố tất yếu nó tồn tại một cách ngẫu nhiên ngoài ý muốn của bất cứ một doanh nghiệp nào cho nên các doanh nghiệp phải thích ứng với nó chứ không thể trốn tránh. Cạnh tranh làm cho doanh nghiệp mất đi những khách hàng của mình nếu như doanh nghiệp không có những chiến lược hợp lý, hơn thế nữa doanh nghiệp muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình thì việc duy trì và mở rộng thị trường là không thể thiếu. Đây cũng là vấn đề nan giải mà các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu. Điều này có liên quan tới sự tồn vong của doanh nghiệp trong tương lai dù cho doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nào.
Bia là sản phẩm thuộc loại đồ uống giải khát. Đây là lĩnh vực kinh doanh khá sôi động hiện nay. Ngày nay người dân Việt Nam đã khá quen với việc tiêu dùng bia như một loại nước giải khát. Nhất là đối tượng người tiêu dùng là nam giới với bất cứ nghề nghiệp như thế nào và khu vực cư trú ở đâu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bia cũng không ngừng tăng trưởng và điều đó đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường các công ty bia của nhà nước, các công ty liên doanh, các công ty bia địa phương và các xưởng bia tư nhân hợp thành một quần thể cạnh tranh sôi động trong thị trường để tiêu thụ sản phẩm của mình. Họ cố gắng dành lấy "miếng bánh" lớn hơn phần của mình đã có trong thị trường đó. Một điều hiển nhiên là ở đây sẽ xuất hiện những người được và cũng sẽ có người mất phần của mình do sự yếu kém hơn trong cạnh tranh, trong đó hệ thống kênh phân phối có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc gia tăng lợi thế cạnh tranh đặc biệt là có lợi thế cạnh tranh lâu dài bởi các đối thủ cạnh tranh không thể nhanh chóng thiết lập được một hệ thống phân phối có hiệu quả.
Công ty bia Hà Nội là một doanh nghiệp cụ thể hoạt động trong môi trường đó. Cho nên nó cũng không thể thoát ra ngoài những quy luật vốn có của thị trường và những quy luật của cạnh tranh. Mặc dù trong những năm gần đây công ty hoạt động khá tốt luôn hoàn thành kế hoạch sản xuất và tiêu thụ. Thế nhưng tốc độ tăng trưởng của công ty lại kém hơn mức trung bình ngành dẫn đến tình trạng thị phần của công ty có xu hướng suy giảm qua các năm gần đây. Đó là một xu hướng không tốt đối với công ty trong tương lai. Cho nên cần phải có những giải pháp thích hợp để khắc phục. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: " Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty bia Hà Nội".
Nội dung của bài viết bao gồm 3 phần:
Chương I: Kênh phân phối và những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kênh phân phối
Chương II: Thực trạng kênh phân phối của công ty bia hà nội
Chương III. Đề xuất một giải pháp nhằm hoàn thiện kênh phân phối của công ty bia hà nội
72 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty bia Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trải qua hơn 10 năm nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế nước ta đã và đang trở thành quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các doanh nghiệp vận hành theo cơ chế này luôn phải đương đầu với những thách thức từ phía thị trường đưa lại. Nắm bắt hiểu biết về thị trường để có những chính sách thỏa mãn nhu cầu thị trường đã là bí quyết thành công của nhiều doanh nghiệp. Ngày nay các công ty thành công trong kinh doanh là những công ty có định hướng kinh doanh theo thị trường. Do đó có thể thấy thị trường là yếu tố không thể thiếu đối với hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi một lĩnh vực kinh doanh gắn liền với một thị trường nhất định. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh là một yếu tố tất yếu nó tồn tại một cách ngẫu nhiên ngoài ý muốn của bất cứ một doanh nghiệp nào cho nên các doanh nghiệp phải thích ứng với nó chứ không thể trốn tránh. Cạnh tranh làm cho doanh nghiệp mất đi những khách hàng của mình nếu như doanh nghiệp không có những chiến lược hợp lý, hơn thế nữa doanh nghiệp muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình thì việc duy trì và mở rộng thị trường là không thể thiếu. Đây cũng là vấn đề nan giải mà các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu. Điều này có liên quan tới sự tồn vong của doanh nghiệp trong tương lai dù cho doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nào.
Bia là sản phẩm thuộc loại đồ uống giải khát. Đây là lĩnh vực kinh doanh khá sôi động hiện nay. Ngày nay người dân Việt Nam đã khá quen với việc tiêu dùng bia như một loại nước giải khát. Nhất là đối tượng người tiêu dùng là nam giới với bất cứ nghề nghiệp như thế nào và khu vực cư trú ở đâu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bia cũng không ngừng tăng trưởng và điều đó đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường các công ty bia của nhà nước, các công ty liên doanh, các công ty bia địa phương và các xưởng bia tư nhân hợp thành một quần thể cạnh tranh sôi động trong thị trường để tiêu thụ sản phẩm của mình. Họ cố gắng dành lấy "miếng bánh" lớn hơn phần của mình đã có trong thị trường đó. Một điều hiển nhiên là ở đây sẽ xuất hiện những người được và cũng sẽ có người mất phần của mình do sự yếu kém hơn trong cạnh tranh, trong đó hệ thống kênh phân phối có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc gia tăng lợi thế cạnh tranh đặc biệt là có lợi thế cạnh tranh lâu dài bởi các đối thủ cạnh tranh không thể nhanh chóng thiết lập được một hệ thống phân phối có hiệu quả.
Công ty bia Hà Nội là một doanh nghiệp cụ thể hoạt động trong môi trường đó. Cho nên nó cũng không thể thoát ra ngoài những quy luật vốn có của thị trường và những quy luật của cạnh tranh. Mặc dù trong những năm gần đây công ty hoạt động khá tốt luôn hoàn thành kế hoạch sản xuất và tiêu thụ. Thế nhưng tốc độ tăng trưởng của công ty lại kém hơn mức trung bình ngành dẫn đến tình trạng thị phần của công ty có xu hướng suy giảm qua các năm gần đây. Đó là một xu hướng không tốt đối với công ty trong tương lai. Cho nên cần phải có những giải pháp thích hợp để khắc phục. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: " Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty bia Hà Nội".
Nội dung của bài viết bao gồm 3 phần:
Chương I: Kênh phân phối và những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kênh phân phối
Chương II: Thực trạng kênh phân phối của công ty bia hà nội
Chương III. Đề xuất một giải pháp nhằm hoàn thiện kênh phân phối của công ty bia hà nội
Chương I
Kênh phân phối và những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kênh phân phối
I .Tổng quan về kênh phân phối
1.Vai trò của hệ thống kênh phân phối
Vấn đề tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ quan tâm tới việc đưa ra thị trường sản phẩm gì, với giá bao nhiêu mà còn là đưa sản phẩm ra thị trường như thế nào. Chức năng này được thực hiện thông qua mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Các kênh phân phối làm nên sự khác nhau giữa các doanh nghiệp. Phát triển các chiến lược Marketing thành công trong môi trường cạnh tranh quyết liệt ngày nay, là một công việc khó khăn phức tạp. Việc đạt được lợi thế về tính ưu việt về sản phẩm ngày càng trở nên khó khăn. Các chiến lược cắt giảm giá không chỉ nhanh chóng và dễ dàng bị cóp pi bởi đối thủ cạnh tranh mà còn dẫn đến sự giảm sút hoặc bị mất khả năng có lợi nhuận. Các chiến lược quảng cáo thường chỉ có tác dụng trong ngắn hạn và bị mất tác dụng trong dài hạn. Bởi vậy, hệ thống kênh phân phối được các nhà quản trị hết sức quan tâm trong việc tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài.
Kênh phân phối được định nghĩa như sau:"Một tổ chức các quan hệ bên ngoài để quản lý các hoạt động phân phối nhằm đạt các mục tiêu của doanh nghiệp".
Khi nói bên ngoài nghĩa là kênh phân phối tồn tại bên ngoài doanh nghiệp. Nói cách khác nó không phải là một phần cấu trúc tổ chức nội bộ doanh nghiệp. Quản lý kênh phân phối tất nhiên liên quan tới sử dụng khả năng quản lý giữa các tổ chức hơn là quản lý trong nội bộ một doanh nghiệp.
Khi nói tổ chức quan hệ nghĩa là kênh phân phối gồm các công ty hay tổ chức, nhứng người tham gia vào việc đưa hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Họ có chức năng đàm phán, mua và bán hàng, chuyển quyến sở hữu hàng hoá và dịch vụ. Nhưng thông thường chỉ nhứng công ty hay nhứng tổ chức nào liên quan đến chức năng này mới là thành viên của kênh. Số còn lại thực hiện các chức năng khác không phải là thành viên chính thức của kênh.
Các hoạt động nghĩa là nhấn mạnh đến các hoạt động trong kênh. Hoạt động có thể bao gồm từ sự phát triển ban đầu đến những quản lý chi tiết hàng ngày của kênh. Vấn đề quan trọng nhất là người quản lý kênh phải cố gắng tránh điều khiển không có ý thức các họat động của kênh.
Quản lý kênh phải có các mục tiêu phân phối nhất định. Kênh phân phối tồn tại nhằm đạt các mục tiêu đó. Cấu trúc và quản lý kênh phân phối là nhằm đạt các mục tiêu phân phối của công ty. Khi các mục tiêu này thay đổi, các yếu tố trong tổ chức quan hệ bên ngoài, và cách quản lý các hoạt động cũng sẽ thay đổi.
Quản lý kênh phân phối là một trong những chiến lược chính và hết sức quan trọng, đặc biệt đối với các sản phẩm có thị trường là người tiêu dùng cuối cùng, sản phẩm chóng hỏng không có khả năng cất trữ…
Chiến lược phân phối thành công sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh quan trọng và là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường.
2.Lý thuyết về quá trình phân phối và vai trò của các trung gian thương mại
* Những hoạt động cơ bản của quá trình phân phối
-Phân loại sắp xếp hàng hoá
Chuyên môn hoá và cạnh tranh tạo ra vô số các sản phẩm và dịch vụ. sản phẩm của những người sản xuất này được yêu cầu bởi các nhà sản xuất khác, các doanh nghiệp trung gian và người tiêu dùng trong tổng thể. Mỗi khách hàng tìm kiếm một tập hợp riêng về hàng hoá. Quá trình làm phù hợp những khác biệt về số lượng, về chủng loại giữa sản xuất và tiêu dùng gọi là sắp xếp hàng hoá. Phân loại hàng hoá là quá trình giải quyết sự khác biệt giữa sản xuất và tiêu dùng về loại hàng hoá và giảm sự tìm kiếm, nghiên cứu không cần thiết. Phân loại hàng hoá gồm 4 loại hoạt động cơ bản: tiêu chuẩn hoá, tập hợp, phân bổ và sắp xếp.
- Làm gần về không gian
Nội dung cơ bản để tạo sự ăn khớp về không gian được đưa ra như là nguyên tắc tối thiểu hoá tổng số các trao đổi. Đây là lý do cơ bản cho việc sử dụng cấu trúc phân phối nhiều giai đoạn. Sự xuất hiện các nhà phan phối chuyên môn hóa là để giảm tổng số các trao đổi và tạo điều kiện vận chuyển thuận tiện với khối lượng lớn ở cự ly dài nhờ đó giảm chi phí vận chuyển.
- Làm gần về thời gian
Nhu cầu tăng thêm phải được thoả mãn trong suốt quá trình phân phối có liên quan tới sự hạn chế về thời gian. Sự ăn khớp về thời gian giải quyết một thực tế là có sự khác nhau giữa thời gian các sản phẩm được sản xuất và thời gian chúng được yêu cầu. Mặt khác của sự ăn khớp về thời gian quan tâm tới dòng chảy sản phẩm qua hệ thống phân phối đúng thời gian, một sự chắc chắn đảm bảo thoả mãn khách hàng.
* Quá trình phát triển của phân phối và sự xuất hiện các trung gian.
Quá trình phân phối hàng hoá từ người sản xuất tới tay người tiêu dùng đã pháp triển qua các hình thức sau: từ phân phối trực tiếp đến phân phối qua thị trường trung tâm và cuối cùng là phân phối qua nhiều giai đoạn với các trung gian chuyên môn hoá.
- Phân phối trực tiếp
Loại kênh này thể hiện sự phân phối đơn giản nhất và ngắn nhất. Kênh này thường được sử dụng với những mặt hàng có thể bán qua máy bán tự động hay qua việc đặt hàng bằng thư, điện thoại. Ngoài ra, nó có lợi thế lớn trong việc bán hàng cho các tổ chức, doanh nghiệp.
- Phân phối qua thị trường trung tâm
Để tăng hiệu quả, kênh trực tiếp chuyển thành cấu trúc thị trường trung tâm. Một thị trường trung tâm xuất hiện khi các hộ kinh doanh quyết định gặp nhau ở một địa điểm trung tâm để thực hiện trao đổi. Tổng số các tiếp xúc sẽ giảm xuống một nửa dẫn đến tiếp kiệm thời gian và chi phí, tuy nhiên khi mỗi cá thể tham gia thị trường tự thực hiện việc mua và bán của chính họ thì số trao đổi vãan không giảm. Các trung gian xuất hiện khi một doanh nghiệp độc lập thấy một cơ hội thực hiện chức năng làm chủ tồn kho, dự trữ và chấp nhận rủi ro.
Phân phối qua nhiều giai đoạn
Phạm vi hoạt động hạn chế của thị trường trung tâm được thay thế bằng các trung gian chuyên môn hoá. Vì vậy, bán buôn, bán lẻ và các trung gian khác ra đời. Ưu điểm to lớn của phân phối qua nhiều giai đoạn được xuất phát từ các lý do cơ bản sau:
+ Chuyên môn hoá và phân công lao động
Dây là nguyên tắc rõ ràng đầu tiên để tăng hiệu quả hoạt động của mọi tổ chức. ở đây, các cộng việc phân phối phức tạp được chia thành các công việc nhỏ hơn, ít phức tạp hơn và phân chia chúng cho các bên chuyên môn hoá thực hiện để kết quả cuối cùng đạt hiệu quả kinh tế cao. Các công việc phân phối như mua, bán, chuyển quyền sở hữu, vận chuyển, lưu kho…được phân chia hợp lý cho người sản xuất, đại lý, người bán buôn, người bán lẻ để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
+ Hiệu quả tiếp xúc
Khi số lượng các trung gian tăng thêm một cách hợp lý sẽ làm giảm số lượng các tiếp xúc và do đó làm tăng hiệu quả tiếp xúc. Vấn đề đặt ra là phải htực hiện quá trình chuyên môn hoá, phân công lao động một cách khoa học.
* Cấu trúc của kênh phân phối
Cấu trúc kênh phân phối như là một nhóm các thành viên của kênh mà tập hợp các công việc phân phối được phân bổ cho họ. Đó là một tập hợp các công việc phân phối yêu cầu phải được thực hiện nhằm đạt các mục tiêuphân phối của một công ty, mà người quản lý phải quyết định phân công. Hơn nữa, cấu trúc của kênh sẽ phản ánh cách thứcngười quản lý đã phân bổ các công việc này như thế nào giữa các thành viên của kênh.
Các loại kênh thường được thực hiện:
M C
M R C
M W R C
M A W R C
Trong đó: M: Người sản xuất, A: Đại lý, W: Người bán buôn,
R: Người bán lẻ, C: Người tiêu dùng.
II.Đặc tính thị trường và sản phẩm bia
1. Nhu cầu thị hiếu và thu nhập của người tiêu dùng
Nhu cầu về bia ở nước ta nói chung và ở Hà nội nói riêng đang tăng nên cả về quy mô lẫn cơ cấu dó nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, bia là nước giải khát cao cấp được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng và nó chứa nhiều chất dinh dưỡng.
Thứ hai, dân số tăng nhanh, thu nhập tăng, nhu cầu của con người ngày càng cao, nhiều đòi hỏi mới của cuộc sống hiện đại. Mặt khác cơ cấu dân cư thay đổi, xuất hiện những tầng lớp người có thu nhập cao do thích ứng được với cơ chế thị trường nên yêu cầu của họ ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Không chỉ đơn giản là chất lượng mà còn cả về chủng loại sản phẩm mới, các dịch vụ gắn liền với quá trình tiêu dùng sản phẩm cũng tăng nên.
Thứ ba, trong những năm gần đây, môi trường kinh tế rất thuận lợi cho việc phát triển ngành bia. Đồng thời, cùng với sự phát triển kinh tế nhanh, cơ sở hạ tầng như: hệ thống thông tin, đường sá, phương tiện vận tải…đã được hoàn thiện hơn. Nhiều trung tâm thương mại, văn phòng đại diện xuất hiện làm biến động nhu cầu nói chung và nhu cầu về bia nói riêng tăng mạnh.
Thứ tư, môi trường văn hoá- xã hội, luật pháp cũng là yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu về bia
Mặc dù những giá trị văn hoá cốt lõi khá bền vững, song vẫn có những biến đổi nhất định. Moi trường văn hoá Việt Nam không nằn ngoài su hướng này. Trong nền kinh tế thị trường vịc du nhập nền văn hoá ngoại lai là truyện rất phổ bíên, trong đó nó bao hàm cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. ở đây chúng ta chỉ bàn đến những mặt tích cực của giá trị văn hoá tác động đến nhu cầu tiêu dùng bia như thế nào.Như chúng ta đã biết trước đây nhu cầu tiêu thụ bia bình quân đầu người trong năm của người dân Việt Nam là con số không, nhưng giờ đây chỉ số này là 10 lít/ năm một người. Điều này cho chúng ta thấy rằng những du nhập lối sống, thói quen từ phương tây về tiêu dùng bia đang trở thành những kiểu sống mới cho những lớp người mới. Họ đang có su hướng tự khảng định mình, muốn thể hiện một phong cách sống sang trọng, thành đạt, bình dân… Muốn tìm một cảm giác "Nâng nâng" Muốn" Gần gũi" với bia hơn. do vậy việc tiêu dùng bia không còn lạ lẫm với người tiêu dùng mà nó trở nên thường xuyên hơn tích cực hơn.
Bên cạnh đó trong một vài năm gần đây Nhà nước có những chủ trương chính sách có tác dụng khuyến khích tiêu dùng bia như: Cho phép thành lập các nhà mày bia liên doanh với các Công ty nước ngoài, đầu tư mở rộng cho một số nhà máy bia lớn của nhà nước. Chính điều này đã làm cho nhu cầu về bia ngày càng tăng
Biểu số 1: Nhu cầu tiêu thụ bia bình quân đầu người ở Việt Nam
và một số quốc gia khác
STT
Tên quốc gia
Mức tiêu thụ bình quân ( lít/ năm/ người)
1
Việt Nam
10
2
Trung Quốc
14
3
Thái Lan
19
4
ASEAN
18
5
Đức
144
Nguồn:thời báo kinh tế Việt Nam 3/1997
Tạp chí công nghiệp số 13/2000
Nếu xét những năm trước đây, thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì chúng ta sẽ không thấy nổi lên tính chất thời vụ. Bởi vì công ty bia Hà nội sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước giao.
Chuyển sang cơ chế mới, thị trường bị thu hẹp, ta mới thấy rõ nét tính chất thời vụ trong việc tiêu thụ sản phẩm bia. ở công ty bia Hà nội, sản xuất các sản phẩm chính là bia hơi, bia lon, bia chai (tuy nhiên trong năm 1995 công ty đã ngừng sản xuất bia lon do lượng bia lon tiêu thụ chậm song sang năm 1996 công ty tiếp tục sản xuất loại bia này).
Thực tế cho thấy nhu cầu bia ngày càng tăng lên. Vào những ngày mưa dầm gió rét sản phẩm bia tiêu thụ chậm, nhu cầu về bia giảm đi rõ rệt. Đến mùa hè thì nhu cầu sản phẩm bia lại tăng lên rất nhiều, do nhu cầu khách hàng tiêu thụ rất lớn. Do vậy mà sản lượng tăng gấp ba đến bốn lần so với mùa đông. Chính sự co dãn của cung cầu này ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch sản xuất của công ty. Bên cạnh đó, do chính sách mở cửa của nước ta, đời sống của các tầng lớp dân cư tăng lên đã có bước cải thiện quan trọng, lượng khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng càng thúc đẩy cầu về bia tăng lên. Trước tình hình đó công ty đã lập kế hoạch sản xuất sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
Do bia là loại sản phẩm đang có sức tiêu thụ lớn, thu được lợi nhuận cao nên ngày càng trở thành thứ sản phẩm bị cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất. Các hãng đưa ra các sản phẩm của mình với chất lượng và hình thức đẹp. Tuy nhiên trên thị trường hiện nay đang xuất hiện nhiều loại bia giả, do vậy làm mất uy tín của công ty trên thị trường. Hiện nay thị hiếu của người tiêu cùng là rất khác nhau, nhưng nhìn chung có thể phân thành các nhóm sau:
Nhóm một: tập hợp những người thích uống loại bia có nồng độ nhẹ, dễ uống và uống nhiều không bị say. Đây là những người uống bia kém và phần lớn là phụ nữ và thời tiêu dùng của họ thường vào những dịp lễ tết…
Nhóm hai: tập hợp những người thích uống loại bia nặng, nhiều cồn, đây chủ yếu là những người uống được bia và những người nghiện bia tuy vậy họ là những người tiêu dùng không nhiều.
Nhóm ba: gồm những người thích uống loại bia có vị đậm vừa phải, vùa để giải khát, vừa tạo thêm sự ngon miệng trong các bữa ăn. Đây thực sự là nhóm tiêu dùng lớn vị họ tiêu dùng thường xuyên và với khối lượng lớn.
Ngoài tính chất thời vụ, thị hiếu tiêu dùng, đặc điểm sản xuất và tiêu thụ bia còn liên quan đến vấn đề thu nhập. Những người có thu nhập cao thường tiêu dùng loại bia ngon, tiện lợi trong tiêu dùng, còn những người có mức thu nhập trung bình thì mặt hàng tiêu dùng chính của họ là bia hơi và bia chai vì chất lượng và giá cả cũng phù hợp với họ. Như vậy bia chai và bia hơi của công ty hiện nay được tiêu dùng rất mạnh, do công ty đang tập trung khai thác thị trường bình dân
2.Tình hình cung cấp bia trên thị trường
Hiện nay, ngành sản xuất bia, nước giải khát là một trong những ngành mang lại lợi nhuận khá cao và có thời gian quay vòng vốn nhanh. Dó đó, có rất nhiều cơ sở thành lập, những nhà máy bia liên doanh liên kết với nước ngoài để tạo ra nguồn vốn, trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại…nhằm sản xuất và đưa ra thị trường những loại bia cao cấp để phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng.
Nếu như trước đây tổng sản lượng bia cung cấp ra thị trường chủ yếu là do hai nhà máy lớn là Nhà máy Bia Hà nội và Nhà máy Bia Sài Gòn thì hiện nay trên thị trường bia Việt Nam đã có gần 30 nhãn hiệu lớn xuất hiện.
Với sự ra đời của hàng loạt các hãng bia và các cơ sở sản xuất bia ở các tỉnh thành, cuộc chiến tranh giành giật thị trường của các hãng diễn ra ngày càng sôi động. Các Nhà máy này cung cấp ra thị trường hàng trăm triệu lít bia mỗi năm với đủ các loại nhãn hiệu, chủng loại sản phẩm: bia chai, bia hơi, bia lon phục vụ mọi tầng lớp xã hội, từ những người thuộc tầng lớp cao cấp đến những người bình thường. Ngoài những loại bia được sản xuất trong nước, trên thị trường còn xuất hiện một số loại bia nhập ngoại như: Miler, Budweiser (Mỹ), Isenbeck (Đưc), Liquan (Trung Quốc), Corona (Mexico). ở nước ta hiện nay có các nhà cung cấp sau:
Biểu số 2: Các loại bia trên một số tỉnh thành lớn
Nơi sản xuất
Nhãn hiệu
Hà nội
Hà nội, Carlsberg, Halida, Việt Hà…
Thành phố Hồ Chí Minh
Sài Gòn, 333, Tiger, Heineken,
Nam Định
Nada
Huế
Hada, Tuborg, Hue beer, Hue Imperial Stout.
Đà Nẵng
Đà Nẵng, Sông Hàn
Thanh Hoá
Thanh Hoá
Hải Phòng
Hải Phòng, Kaiser
Nguồn :thời báo kinh tế việt nam tháng 3/1998
Mặc dù có rất nhiều nhà cung cấp nhưng dịch vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của thị trường. Điều này đang là vấn đề đặt ra cho những nàh sản xuất bia trong nước, ta xem bảng sau.
Năm 1991 sản lượng bia sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 70% tiêu dùng.
Năm 1992 sản lượng bia sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 72% tiêu dùng.
Năm 1998 sản lượng bia sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 90% tiêu dùng.
Biểu số 3: Khả năng cung cấp của một số hãng
Đơn vị: triệu lit/năm
Nhà máy
Địa phương
Công suất (bia chai, lon)
Công suất bia hơi
Tổng công suất
Công suất dự kiến năm 2005
NM Bia Hà Nội
Hà Nội
36
18
54
100
NM Bia Đông Nam á
Hà Nội
50
0
50
60
NM Bia Việt Hà
Hà Nội
0
15
15
30
NM Bia Hà Tây
Hà Tây
40
0
40
60
NM Bia Nam Hà
Nam Định
2
2,5
4,5
6
NM Bia Thanh Hoá
Thanh Hoa
10
8
18
20
Các NM khác
Miền Bắc
20
20
40
60
158
63,5
221,5
336
BGI Đà Nẵng
Đà Nẵng
20
0
20
25
NM bia Huế
Huế
30
0
30
50
NM Bia Rồng Vàng
Khánh Hoà
20
0
20
40
NM Bia Sài Gòn
Sài Gòn
180
16
196
250
NM bia Việt Nam
Sài Gòn
110
0
110
150
Các NM khác
Miền Nam
25
30
55
70
295
56
341
420
Nguồn: Tài liệu của hiệp hội Rượu- Bia- Nước giải khát Việt Nam
Biểu số 4: Tình hình tiêu thụ của một số Nhà máy
trên thị trường bia Việt Nam
Nhãn hiệu
Nhà máy
Lượng bán
(100.000 lit)
Thị phần (%)
Sử dụng
Bia chai, lon
Bia hơi
Công suất
Sử dụng
Hà Nội
Nm bia Hà Nội
360
180
8,9
540
540
Halida
Nm bia Đông Nam á
290
0
5
500
290
Carlsberg
Nm bia Đông Nam á
190
0
3,1
190
Việt Hà
Nm bia Hà Tây
0
0
0
0
0
Nada
Nm bia Nam Định
28
12
0
45
40
Huda
Nm bia Huế
270
0
5
300
270
Tuborg
Nm bia Huế
10
0
0
10
Snmiguel
Nm bia Khánh Hoà
180
0
3
200
180
Sài Gòn
Nm bia Sài Gòn
1520
80
27
1960
1600
333
Nm bia Sài Gòn
350
0
6
350
Tiger
Nm bia Việt Nam
700
0
11,5
1100
700
Heineken
Nm bia Việt Nam
300
0
5
300
BGI
Nm bia Tiền Giang
90
0
1
350
90
Nguồn: Tài liệu của hiệp hội Rượu- Bia- Nước giải khát Việt Nam
Như vậy, trước đây sản lượng bia sản xuất ra không đáp ứng được hết nhu cầu tiêu dùng thì hiện nay sự gia tăng các cơ sở sản xuất bia trong nước cùng với lượng bia nhập ngoại nhanh hơn mức tang nhu cầu dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bia. Sự cạnh tranh này buộc các doanh nghiệp hiện tại và các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đa dạng hoá chủng loại, phục vụ một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng.
3.Tình hình cạnh tranh giữa các loại bia trên thị trường
Ngành sản xuất bia ở Việt Nam hiện nay đang có những bước phát triển mạnh mẽ.Thực tế cho thấy trong vàinăm gần đây đẫ có sự cạnh tranh sôi động và quyết liệt trên thị trường giữa các nhà máy bia. Sở dĩ như vậy vì nhu cầu tiêu dùng bia không ngừng tăng lên.dự báo mức tiêuthụ sẽ còn tăng rất nhiều trong thời gian tới. thấy được tiềm năng phát triển của ngàng đầy sức hấp dẫn,nếu kinh doanh sẽ rất có thể thu được lợi nhuận cao nên nhiều nhà doanh nghiệp muốn nhảy vào, làm cho cường độ cạnh tranh càng lên cao.
Công ty bia Hà Nội cũng như rất nhiều Nhà máy bia khác có rất nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau. Sự cạnh tranh đó không những chỉ diễn trong nội bộ ngành bia với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa ngành bia với các ngành sản xuất khác như ngành sản xuất nước giải khát. Do vậy việc hiểu được người tiêu dùng như thế nào thông qua các quyết định mua thì công ty dễ dàng phat hiện ra các đối thủ cạnh tranh cản trở việc bán sản phẩm của công ty.
Đối với sản phẩm bia thì sự cạnh tranh giữa nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà máy sản xuất bia với nhau. Trong tình hình thị trường bia ở nước ta, cạnh tranh nội bộ ngành được cụ thể hoá là sự cạnh tranh giữa các đơn vị sản xuất bia trong nước với nhau.
- Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia hơi.
- Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia chai.
- Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia hộp với bia hộp nhập ngoại.
- Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia hơi với các nhà sản xuất bia hộp
- Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia hơi với các nhà sản xuất bia chai
- Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia hộp với các nhà sản xuất bia chai
Đồng thời có sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia trong nước với bia nhập ngoại.
Cuộc cạnh tranh giữa các ngành được hiểu là sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất bia với các nhà sản xuất sản phẩm thay thế khác:
- Cạnh tranh giữa bia và rượu.
- Cạnh tranh giữa bia và nước giải khát
Công cụ mà các công ty này sử dụng để cạnh tranh với nhau chủ yếu là: giá cả chất lượng, và phương thức tiếp thị
4. Đặc điểm sản phẩm
Các biến số sản phẩm là một nhân tố khác để đánh giá cấu trúc kênh có thể thay thế. Một số biến số sản phẩm sẽ được xem xét dưới đây:
4.1. Thể tích và trọng lượng:
Các sản phẩm nặng và cồng kềnh có chi phí bốc dỡ và chuyên chở rất lớn tương ứng với giá trị của nó. Những người sản xuất những sản phẩm như vậy cần cố gắng tối thiểu hoá các chi phí này bằng cách chỉ vận chuyển chúng đến một vài vị trí có thể. Kết quả là cấu trúc cồng kềnh cho các sản phẩm nặng và cồng kềnh theo nguyên tắc chung là càng ngắn càng tốt. Điều này có nghĩa là trực tiếp từ người sản xuất đến người sử dụng. Tuy nhiên, trừ trường hợp khách hàng mua các khối lượng nhỏ và cung cấp nhanh có thể cần phải sử dụng một số hình thức trung gian.
Bia chai: là loại bia có chất dinh dưỡng cao, để được lâu vận chuyển đi được xa nhưng cồng kềnh, Đây chính là nguyên nhân gây khó khăn cho khâu vận chuyển tiêu thụ. Do đặc điểm người tiêu dùng mua với số lượng nhỏ vì vậy việc duy trì các trung gian là vẫn cần thiết.
Bia lon: Có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, để được lâu hơn bia chai, vận chuyển đi xa được dễ dàng, hình dáng lịch sử, tiện lợi trong sửu dụng. Nhưng hiện nay tại Công ty việc tiêu thụ bia lon đang có chiều hướng giảm. Công ty đã có chủ trương kích thích cho bia lon tiêu thụ nhưng kết quả thu được chưa nhiều khả quan. Do vậy trong thời gian tới Công ty nên sử dụng nhiều trung gian cho hoạt động tiêu thụ bia lon.
4.2. Tính dễ bị hư hỏng:
Các sản phẩm tươi sống và nhanh chóng bị lạc mốt gọi là những sản phẩm mau bị hư hỏng. Rõ ràng về phương diện thiết kế kênh trong trường hợp này cần chuyển sản phẩm nhanh chóng từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng để tối thiểu hoá rủi ro có thể từ tính chất dễ bị hư hỏng cao. Các cấu trúc kênh nên được thiết kế sao cho cung cấp sự vận chuyển nhanh chóng từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Khi người sản xuất và người tiêu dùng gần gũi, các cấu trúc kênh thường là ngắn. Khi khoảng cách xa hơn, một cách thực tế và kinh tế, để cung cấp tốc độ phân phối cần thiết có thể sử dụng vài trung gian tron
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100608.doc