Bài viết Đạo đức cách mạng của đảng với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng. Theo tác giả, để phát huy đạo đức cách mạng với tính cách một nguồn lực tinh thần trong điều kiện mới, cần: thứ nhất, coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên; thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; thứ ba, phát huy vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

 

 

doc76 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Đạo đức cách mạng của đảng với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Triết học số 1 (236) năm 2011 ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY NGUYỄN HÙNG OANH (*) Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng. Theo tác giả, để phát huy đạo đức cách mạng với tính cách một nguồn lực tinh thần trong điều kiện mới, cần: thứ nhất, coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên; thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; thứ ba, phát huy vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đạo đức cách mạng là một hệ thống giá trị và định hướng giá trị được thể hiện dưới dạng các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xuất phát từ lợi ích của sự nghiệp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Tính thực tiễn của nó là sự thống nhất giữa ý thức và hành vi đạo đức, tạo nên phẩm chất đạo đức - yếu tố nền tảng trong nhân cách của người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đạo đức cách mạng là "cái gốc", cái "nền tảng" của người cách mạng mà thiếu nó, người cách mạng không thể hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình. Theo đó, đạo đức cách mạng là nguồn lực tinh thần to lớn của một Đảng cách mạng; là động lực, điều kiện để Đảng cách mạng và mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với giai cấp và toàn dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh cách mạng của mình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, Đảng đã đào tạo ra những con người ưu tú hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng; không ít cán bộ, đảng viên của Đảng đã trở thành những tấm gương lớn về đạo đức cách mạng để quần chúng nhân dân học tập, noi theo.(*)Trải qua hơn 80  năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, đạo đức cách mạng của Đảng đã trở thành hạt nhân định hướng cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội và Đảng ta đã trở thành biểu tượng của lương tri, của trí tuệ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”(1) và “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(2). Có thể thấy, đạo đức cách mạng của Đảng ta đã trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ và có vai trò to lớn không chỉ đối với cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn đối với toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà và đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử”(3) của cách mạng Việt Nam đã đạt được qua hơn 25 năm đổi mới toàn diện đất nước đã tiếp tục khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trước những khó khăn, thách thức lớn do tình hình thế giới và trong nước đưa lại cũng như sự chống phá của các thế lực thù địch, Đảng ta đã giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định nền tảng tư tưởng cùng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đa số cán bộ, đảng viên của Đảng, trên cơ sở thấm nhuần đạo đức cách mạng tiếp tục “phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo trong công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng thành, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4). Như vậy, trước các thách thức không nhỏ do tình hình thời cuộc và thực tiễn của sự nghiệp cách mạng đất nước đưa lại, bản lĩnh chính trị và đạo đức của Đảng ta tiếp tục được khẳng định một cách vững chắc trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vai trò đạo đức cách mạng của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục được phát huy trong thời kỳ mới.(4) Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Sự nghiệp đổi mới tiếp tục đứng trước nhiều thời cơ và vận hội to lớn do điều kiện quốc tế và các thành quả của công cuộc đổi mới đưa lại. Tuy nhiên, bên cạnh các điều kiện thuận lợi, cách mạng nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Ngoài các nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, sự chống phá của các thế lực thù địch, còn có một nguy cơ hiện hữu, như một thứ giặc “nội xâm” đang đe doạ sự tồn vong của chế độ ta, đó là tình trạng “suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả”(5). Đáng chú ý, sự suy thoái đó không chỉ liên quan đến sức chiến đấu và vận mệnh của Đảng, mà còn tạo ra các “hiệu ứng âm” ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, đạo đức của toàn xã hội và làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Tình hình trên cho thấy, để Đảng ta hoàn thành được nhiệm vụ của người chiến sĩ tiên phong và phát huy vai trò nguồn lực tinh thần của đạo đức cách mạng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như định hướng, nêu gương cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội, một nhu cầu bức thiết đặt ra hiện nay là phải “xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”(6). Cần nhận thấy rằng, từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, hoàn cảnh quốc tế và trong nước cũng như nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới mẻ. Việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đạo đức cách mạng gắn với vai trò của một đảng cầm quyền, trong điều kiện hội nhập, mở cửa với bên ngoài, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với một môi trường văn hóa và đạo đức xã hội có nhiều biến đổi phức tạp, mà sự tác động của nó đến đạo đức của cán bộ, đảng viên và của các tầng lớp nhân dân không chỉ có mặt tích cực, mà có cả mặt tiêu cực... là một nhiệm vụ rất nặng nề. Bởi vậy, để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, Đảng phải coi trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; rèn luyện đạo đức cách mạng trong toàn Đảng và xem đây là hai mặt của một quá trình thống nhất nhằm xây dựng Đảng vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị lẫn tổ chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo.(6) Có thể nói, xây dựng và phát huy vai trò đạo đức cách mạng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay vừa là một nhu cầu hết sức bức thiết, vừa là một vấn đề không kém phần phức tạp không chỉ liên quan đến sinh mệnh của Đảng, mà còn liên quan đến đời sống đạo đức của toàn xã hội. Về thực chất, đây là cuộc đấu tranh toàn diện và lâu dài, liên quan đến các tổ chức đảng, đến từng cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Đây là cuộc đấu tranh giữa đạo đức cách mạng với các tàn dư của đạo đức xã hội cũ, đồng thời là cuộc đấu tranh khắc phục các tư tưởng, tâm lý, lề thói tiêu cực về đạo đức nảy sinh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, mở cửa. Song, vấn đề là ở chỗ, đạo đức cách mạng của Đảng phải tiếp tục khẳng định được vai trò hạt nhân định hướng, dẫn dắt cho sự phát triển đạo đức của xã hội và từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải “thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách”(7) để các tầng lớp nhân dân học tập. Để tiếp tục phát huy nguồn lực tinh thần mạnh mẽ của đạo đức cách mạng trong đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cần quan tâm nhận thức và giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất, để tầm cao trí tuệ và đạo đức cách mạng của Đảng tiếp tục phát huy vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Đảng phải đặc biệt coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Cả lý luận lẫn thực tiễn đều cho thấy, chính trị và đạo đức là hai yếu tố nền tảng thống nhất trong nhân cách của người cách mạng. Sự suy thoái về phẩm chất của người cán bộ, đảng viên của Đảng có thể đi từ sự suy thoái về tư tưởng, chính trị; song, nhiều khi sự suy thoái đó lại bắt đầu từ sự suy thoái về đạo đức, lối sống. Nhưng cho dù khởi nguồn của sự suy thoái đó từ đâu đi nữa, thì hệ lụy của nó cũng đều gây ra các tác hại không nhỏ cho Đảng và sự nghiệp cách mạng của đất nước. Bởi vậy, xây dựng phẩm chất chính trị cho cán bộ, đảng viên của Đảng phải gắn với nâng cao đạo đức cách mạng, phải đảm bảo để  mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn có đạo đức cách mạng trong sáng, xứng đáng là những người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.(7) Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng hiện nay. Xét về thực chất, nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên luôn phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò chủ thể của các cấp tổ chức đảng và của từng cán bộ, đảng viên. Đây là hoạt động có mục đích để chuyển hóa các giá trị của đạo đức cách mạng thành giá trị đạo đức cá nhân và hành vi đạo đức thực tế của mỗi người. Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên của Đảng. Mặt khác, tình hình đạo đức trong Đảng hiện nay đòi hỏi phải “đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng”(8). Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và tự giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên không tách rời nhau, hiệu quả của công tác này phụ thuộc vào việc thấm nhuần lý tưởng và nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của người cách mạng; coi trọng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi. Người cán bộ, đảng viên phải luôn “chính tâm” với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân và đất nước lên trên hết. Có như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ không ngừng tiến bộ, làm cho Đảng mạnh lên và trở thành tấm gương để quần chúng noi theo, học tập. Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải ra sức củng cố, phát triển đạo đức cách mạng lên một trình độ mới. Theo đó, việc nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên không tách rời cuộc đấu tranh khắc phục các tiêu cực về đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Trước hết, phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - một căn bệnh “đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng”(9), như suy thoái về đạo đức, lối sống; quan liêu, tham nhũng; kèn cựa, địa vị và mất đoàn kết trong Đảng, v.v.. Đây là cuộc đấu tranh không kém phức tạp diễn ra trong các tổ chức và từng con người; bởi vậy, phải được tiến hành với các giải pháp đồng bộ, kiên quyết và vững chắc.(8) Thứ ba, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xây dựng và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải tiếp tục hướng vào xây dựng từng tổ chức đảng vững mạnh và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Mặt khác, phải gắn cuộc vận động với nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xử lý “kịp thời, nghiêm minh, công khai theo kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, công chức tham nhũng”(10). Để đạo đức cách mạng của Đảng tiếp tục phát huy vai trò trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cần đề cao tính tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở mọi cương vị lãnh đạo. Nhân dân ta có truyền thống coi trọng đạo đức, thường đánh giá, xem xét người lãnh đạo mình trước hết về mặt đạo đức. Do vậy, để định hướng, nêu gương cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội, cán bộ và đảng viên của Đảng phải đi đầu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Để thực hiện tốt vấn đề trên, cần tiếp tục nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn xã hội. Trong cuộc vận động này, cán bộ, đảng viên của Đảng phải đi đầu, đi trước để các tầng lớp nhân dân học tập, noi theo.(10) Phát huy vai trò đạo đức cách mạng của Đảng là một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng trong thời kỳ mới. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đang đòi hỏi phải tiếp tục phát huy nội lực tinh thần từ bên trong của Đảng, đó là tầm cao trí tuệ và đạo đức cách mạng của một Đảng cầm quyền - một Đảng không có lợi ích nào khác là phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trong sự nghiệp đó, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấu triệt hơn nữa lời căn dặn trước lúc đi xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11). --------------------------------- (*) Đại tá, tiến sĩ, chủ nhiệm Khoa Triết học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. (1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2. (2) Hồ Chí Minh. Sđd., tr.5. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.17. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.216. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.22. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.279. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.182 - 183. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.286. (9) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.456. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.289. (11) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.498. LUẬN ĐIỂM “KHOA HỌC TRỞ THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRỰC TIẾP” CỦA C.MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung cơ bản trong luận điểm của C.Mác dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, tác giả đã phân tích và luận chứng vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong xã hội hiện đại, cho rằng khoa học – công nghệ và sản xuất đang có xu hướng nhất thể hóa. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải pháp để phát huy hiệu quả của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền sản xuất xã hội và trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay và là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Về luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác, đến nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ý kiến khác lại cho rằng khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thậm chí có ý kiến cho rằng C.Mác không nói như vậy. Theo chúng tôi, luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác có nghĩa là khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.(*)Bởi vì, khoa học (biểu hiện ở các tri thức khoa học, thành tựu của khoa học, phát minh khoa học) là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi được con người ứng dụng trong hoạt động sản xuất, hay nói cách khác là khi được chuyển hoá, được “vật chất hoá” thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng trong hoạt động lao động để tạo ra của cải vật chất thì nó trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Còn khoa học với tính cách một hình thái ý thức xã hội thì nó là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng chứ không thể là lực lượng sản xuất hay thành tố của lực lượng sản xuất được. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã nhiều lần khẳng định vai trò cũng như sức mạnh cải tạo thế giới của tri thức khoa học khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, ông cũng chỉ rõ rằng, tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ một tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. Trong Gia đình thần thánh, C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một lần nữa khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(1). Trong các yếu tố cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì công cụ lao động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động, biểu hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người, Ph.Ăngghen gọi nó là khí quan của bộ óc người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nhằm nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người, còn C.Mác thì chỉ rõ: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(2), “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(3). Yếu tố trực tiếp quyết định sự phát triển của công cụ lao động chính là khoa học và công nghệ, bởi nhờ có thành tựu khoa học (những phát kiến khoa học) và công nghệ, công cụ lao động được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ lao động cơ bắp của con người và làm cho lao động đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, có thể nói, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến cuộc cách mạng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.(1) Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, quá trình nhất thể hoá giữa khoa học và công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất yếu. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học với các tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển thì không thể không chú trọng hàng đầu vấn đề này. Tất nhiên, cần lưu ý rằng, thứ nhất, sức mạnh và tiềm lực của khoa học và công nghệ bao gồm sức mạnh của khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn) và sức mạnh của công nghệ (bao gồm công nghệ chiến lược, công nghệ quản lý và công nghệ kỹ thuật). Thứ hai, khoa học và công nghệ có thể là động lực phát triển kinh tế, nhưng tự nó không trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí trở thành nhân tố phá hoại sự tiến bộ xã hội. Thứ ba, khoa học và công nghệ phải được kết hợp chặt chẽ với yếu tố con người thì mới phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong trường hợp khoa học và công nghệ quá lạc hậu hoặc vượt quá xa so với năng lực của người sử dụng thì đều không đưa lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn. Thứ tư, không chỉ những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, mà cả tri thức khoa học xã hội và nhân văn cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó là cơ sở lý luận cho việc quản lý các quá trình sản xuất hiện đại, công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng mọi nguồn lực một cách có hiệu quả, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững. Trong lịch sử không phải bao giờ khoa học cũng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều này có nguyên nhân từ cách phân chia truyền thống đối với hoạt động nghiên cứu khoa học thành: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu triển khai và dự án sản xuất thử - thử nghiệm. Cách phân chia này đã coi khoa học và công nghệ và sản xuất là hai lĩnh vực riêng biệt. Vì vậy, trong suốt một thời gian dài, người ta chỉ tập trung ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ ở các viện, trường, sau đó mới tìm cách “gắn kết” khoa học và công nghệ với sản xuất. Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Cho đến đầu thế kỷ XIX, khoa học vẫn chỉ đóng vai trò gián tiếp trong quá trình sản xuất. Mặc dù vậy, C.Mác với bộ óc thiên tài của mình đã khẳng định, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như sản xuất, xu thế nhất thể hoá giữa khoa học với sản xuất sẽ trở thành tất yếu. Dự báo khoa học đó đã trở thành hiện thực khi xuất hiện phổ biến một dạng nghiên cứu mới - nghiên cứu sản xuất (R&P - Research & Production). Nếu như kết quả của nghiên cứu lý thuyết là các sản phẩm mang tính lý thuyết, kết quả của nghiên cứu triển khai là các sản phẩm thử nghiệm mang tính khoa học và kỹ thuật, thì kết quả của nghiên cứu sản xuất là các sản phẩm mang tính xã hội và hàng hoá, là kết tinh các thuộc tính khoa học, kỹ thuật, pháp luật, thẩm mỹ... Nói cách khác, sản phẩm của nghiên cứu sản xuất chính là công nghệ sản xuất. Nghiên cứu sản xuất ra đời gắn liền với sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế tri thức ngày nay, nghiên cứu sản xuất lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Thông qua nghiên cứu sản xuất, hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm hàng hoá ngày một gia tăng. Nói cách khác, khoa học đã kết tinh và thăng hoa trong mỗi sản phẩm hàng hoá. Đối với nước ta, quá trong trình xây dựng phương thức sản xuất mới trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu đang là một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện yêu cầu này, Bộ Chính trị đã đề ra một số chủ trương chiến lược quan trọng, trong đó điển hình là chủ trương tập trung xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm tại ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cả nước. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết và Quyết định để cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại ba vùng kinh tế trọng điểm. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, khoa học và công nghệ phải thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, trước hết phải tập trung phát triển khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất. Thực tế chỉ ra rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hoá ngày nay, nền kinh tế của một quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản phẩm hàng hoá của nó luôn được đổ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTạp chí Triết học số 1 (236) năm 2011.doc
Tài liệu liên quan