Bài viết Áp lực tâm lý của việc lãnh đạo

Khám phá về nguồn gốc và biểu hiện của việc lãnh đạo sai lầm, sử

dụng các khái niệm của bộ môn phát triển con người, Manfret Kets

de Vries - Giáo sư về Phát triển lãnh đạo tại INSEAD, trường đại

học kinh doanh nổi tiếng tại Pháp và Singapore đã tổng kết một số

áp lực tâm lý mà các nhà lãnh đạo phải đối mặt, như sự đơn độc của

việc chỉ huy, bệnh tham quyền lực, lo lắng bị ghen ghét, và trầm

cảm.

pdf7 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài viết Áp lực tâm lý của việc lãnh đạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Áp lực tâm lý của việc lãnh đạo (phần 1) Khám phá về nguồn gốc và biểu hiện của việc lãnh đạo sai lầm, sử dụng các khái niệm của bộ môn phát triển con người, Manfret Kets de Vries - Giáo sư về Phát triển lãnh đạo tại INSEAD, trường đại học kinh doanh nổi tiếng tại Pháp và Singapore đã tổng kết một số áp lực tâm lý mà các nhà lãnh đạo phải đối mặt, như sự đơn độc của việc chỉ huy, bệnh tham quyền lực, lo lắng bị ghen ghét, và trầm cảm. Người ta vẫn nhìn nhận công tác lãnh đạo như một hoạt động ôn hoà rất cần thiết, với các nhà lãnh đạo làm việc cho lợi ích của tổ chức và lợi ích của tất cả các cổ đông; cho đến khi các vụ tai tiếng về lãnh đạo ở các tổ chức như Tyco, Enron, và Worldcom hé lộ điểm yếu của việc lãnh đạo. Hầu hết các nghiên cứu về công tác lãnh đạo đều nhấn mạnh vào khía cạnh tích cực, năng động, đóng góp chủ yếu cho mặt đạo đức của nhiệm vụ lãnh đạo - nhiệm vụ bao gồm cả khuynh hướng nâng công tác lãnh đạo lên một mặt bằng cao hơn. Những sự định hướng theo cách đó là đáng hoan nghênh mặc dù chúng ta có thể không nhận ra những gì còn chìm trong bóng tối của việc lãnh đạo, khi nhiệm vụ càng nhiều đi đôi với quyền lực càng lớn. Khía cạnh lãnh đạo mang phong cách Darth Vader (một nhân vật phản diện trong phim "Chiến tranh giữa các vì sao") phát triển từ các nét tính cách cá nhân như tư lợi cá nhân, hám danh, cái tôi ngày càng lớn, tự lừa dối bản thân, và lạm dụng quyền lực. Trong ngành nghiên cứu về bệnh tâm lý học của lãnh đạo, sự kết hợp của tính cách tâm lý cá nhân và quyền lực cá nhân có thể (và hầu như không thể tránh khỏi) tạo ra thảm hoạ cho ngành kinh doanh và xã hội. Mặc dù mặt trái của việc lãnh đạo có quyền thế của nó, nhiều nhà lãnh đạo không sẵn sàng đối mặt với bóng tối lẩn khuất đó. Họ do dự khi nhìn vào chính bản thân mình, và khi họ tự nhìn nhận bản thân, họ lại từ chối các điểm yếu của mình; họ không sẵn sàng để đối mặt với các ảnh hưởng của các nét tính cách cá nhân và cấu trúc có khả năng đe doạ lên tổ chức của mình. Tất cả đều nhanh chóng phủ nhận áp lực của việc lãnh đạo có thể góp phần tạo nên các quyết định và hành vi bất lực. Tuy nhiên, các áp lực tâm lý của việc lãnh đạo có thể rất dữ dội gây ra thái độ bất lực có hại cho cả nhà lãnh đạo và tổ chức. Áp lực tâm lý của việc lãnh đạo Một số các áp lực mà nhà lãnh đạo thường trải qua là: - Sự đơn độc của quyền lực. Khi con người đạt đển đỉnh cao danh vọng trong một tổ chức, stress và sự rối loạn tăng thêm, do các mối quan hệ và hệ thống trợ giúp trước đây đã thay đổi và các đồng nghiệp cũ trở nên xa cách. - Tham quyền lực. Nỗi sợ đánh mất cái mà họ phải rất khó khăn mới đạt được - vị trí lãnh đạo cao nhất trong tổ chức - đôi khi khuyến khích con người có những hành vi xấu xa. - Lo sợ bị ghen ghét. Một số người cảm thấy việc là đối tượng của sự ghen ghét rất khó chịu. Nỗi sợ đó có thể tăng đến mức các hành vi tự huỷ hoại “chuyển thắng thành bại” của sự bất lực. - Trải qua thời kì đặt câu hỏi “Bây giờ là cái gì đây?”. Sau khi đạt được tham vọng của cả cuộc đời, nhà lãnh đạo đôi khi phải chịu đựng cảm giác trầm cảm, cảm giác rằng họ chẳng có gì để cố gắng vươn tới nữa. Tất cả quá trình tâm lý này có thể gây ra stress, lo lắng, và/hoặc trầm cảm, các bệnh lý này đến lượt chúng lại tác động ngược trở lại gây ra các hành vi vô trách nhiệm và vô lý, ảnh hưởng đến văn hoá tổ chức và quá trình ra quyết định. Nhiều trong số các áp lực này xuất phát từ cách thức một cá nhân riêng biệt học cách đối mặt với chu kì của thái độ quá yêu bản thân. Vai trò của hành động quá yêu bản thân Quá trình phát triển cần thiết đi kèm với một mức độ khủng hoảng nhất định. Trên thực tế, trong suốt quá trình bào thai, con người có một lịch trình tự động: bất cứ nhu cầu nào xuất hiện đều được đáp ứng tự động và ngay lập tức. Tình thế này thay đổi kể từ giây phút đứa trẻ trào đời. Để giải quyết khủng hoảng của việc cố gắng cho mọi người biết các nhu cầu và mong muốn của mình, và cũng là một cách thức học tập bằng cách sao chép cảm giác bất lực, đứa trẻ cố duy trì ấn tượng ban đầu của cuộc sống bào thai hoàn hảo và hạnh phúc bằng cách tạo ra các hình ảnh phóng đại và phô trương của bản thân và hình ảnh lý tưởng, toàn năng của bố mẹ chúng. Trải qua thời gian, với sự quan tâm đủ tốt, hai hình ảnh này được các ảnh hưởng của thực tế “thuần hoá” - đặc biệt là các ảnh hưởng từ bố mẹ, anh chị em, người trông trẻ, và giáo viên, những người thay đổi thái độ khoa trương và kiềm chế các tưởng tượng phóng đại của đứa trẻ. Cách thức những người chăm sóc trẻ phản ứng lại với cuộc đấu tranh của trẻ để giải quyết các tình huống rối loạn nghịch lý của thời thơ ấu - chúng ta có thể thấy tình thế lúng túng này giữa làm cách nào để giải quyết căng thẳng giữa các bất lực thời thơ ấu và “cảm giác phóng đại về bản thân” ở hầu hết trẻ em - là việc tối quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của trẻ. Cách giải quyết căng thẳng này chính là nhân tố quyết định cảm giác quyền lực hay bất lực của con người. Giải quyết thiếu đồng bộ thường tạo cảm xúc thịnh nộ, khao khát trả thù, và thèm muốn quyền lực cá nhân. Nếu cảm giác thèm muốn đó không được giải tỏa hợp lý trong các giai đoạn phát triển khác nhau của thời thơ ấu, cảm giác này có thể biến thái theo những cách rất tiêu cực lúc trẻ trưởng thành. Có nhiều cách hiểu khác nhau cho cụm từ sự hướng dẫn của cha mẹ “vừa đủ” mà chúng tôi nhắc đến đoạn trước. Trẻ em bị ảnh hưởng bởi sự cực đoan trong giáo dục gia đình sai lầm thường tin rằng chúng không thể dựa vào tình yêu hay lòng trung thành của bất kì ai. Khi trưởng thành, những người này vẫn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cảm giác bị tước bỏ, thịnh nộ, và trống rỗng, họ phải viện đến thái độ tự coi trọng bản thân để đối mặt với những cảm giác trên. Từ quan điểm nhận thức, chúng ta có thể phân biệt giữa hai biến thể của sự quá coi trọng bản thân: sự quá coi trọng bản thân mang tính xây dựng và mang tính phản động. Những người quá coi trọng bản thân mang tính xây dựng là những người đủ may mắn khi có những người chăm sóc biết cách đáp ứng các rối loạn phù hợp với lứa tuổi - ví dụ như, đủ hoang mang để thử thách nhưng không quá nhiều thành lạm dụng. Những người chăm sóc này có khả năng tạo nên một môi trường hỗ trợ dẫn đến cảm giác tin tưởng căn bản và cảm giác của đứa trẻ kiểm soát được hành động của mình. Những người được nhận sự hướng dẫn của cha mẹ như vậy sẽ có chiều hướng tương đối cân bằng; có ý thức tích cực về lòng tự trọng, khả năng tự phán xét, và một cái nhìn biết cảm thông; và xung quanh họ toả ra một sức sống sống động. Ngược lại, những người quá coi trọng bản thân mang tính phản động lại không may mắn khi họ còn thơ bé. Thay vì được nhận những khủng hoảng phù hợp với lứa tuổi, họ nhận được quá nhiều hoặc quá ít thúc đẩy, hay sự thúc đẩy hỗn loạn, không nhất quán, và do đó họ lớn lên với gia tài là những cảm giác của sự thiếu thốn và mất mát. Một cách thức để những cá nhân này chế ngự cảm giác thiếu thốn là họ thường phát triển những suy nghĩ phóng đại tầm quan trọng của bản thân và tự phóng đại bản thân, đồng thời là nhu cầu được ngưỡng mộ; một cách để họ chế ngự cảm giác mất mát là họ phát triển cảm giác về danh vọng, tin tưởng rằng họ xứng đáng với sự đối xử đặc biệt và quy tắc, luật lệ chỉ dành cho người khác. Hơn nữa, do không có các tình huống cần sự cảm thông, những người này thiếu đi sự đồng cảm; họ ko thể cảm nhận người khác đang nghĩ gì. Thông thường họ bị trói buộc trong các vấn đề về quyền lực, địa vị, danh vọng và sự trịch thượng. Họ cũng có thể phải chịu đựng cái người ta gọi là “nỗi ám ảnh kiểu Monte Cristo” (vai chính trong tiểu thuyết “Bá tước Monte Cristo của Alexandre Dumas), bị ám ảnh bởi cảm giác ghen tị, oán hận, trả thù, và/hoặc các hành động báo thù người khác; nói tóm lại, họ trở nên bị ám ảnh bởi nhu cầu cần được đau đớn trong tưởng tượng hay trong thực tế thì họ mới cảm thấy yên ổn. Manfret Kets de Vries INSEAD Ngọc Trâm (dịch)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfap_luc_tam_ly_cua_viec_lanh_dao_phan_1__3043.pdf
  • pdfap_luc_tam_ly_cua_viec_lanh_dao_phan_2__007.pdf
  • pdfap_luc_tam_ly_cua_viec_lanh_dao_phan_3__8412.pdf
Tài liệu liên quan