Bài thuyết trình Trận Agincourt

Sau loạt tên mởmàn của quân Anh, kỵbinh Pháp mặc dù chưa đủlực lượng và

sắp xếp còn lộn xộn nhưng vẫn xung phong tấn công các cung thủ. Và đó là một

thảm cảnh cho họkhi các kỵsĩ không thểbọc sườn các cung thủAnh (do địa hình),

và cũng không thểxông qua hàng rào cọc đang che chởcác cung thủ. John Keegan

nói là tác dụng chính của các cung thủcung dài là ởchỗhọbắn trúng lưng và bên

sườn ngựa, làm chúng lồng lên.

[37]

Việc kỵbinh tiến lên và rồi thoái lui càng làm

lớp bùn bịkhuấy động lên. Juliet Barkertrích một tài liệu đương thời rằng khi

thoái lui hỗn loạn, ngựa của các kỵbinh Pháp đã tựlàm rồi bộbinh của mình đang

trên đường xông lên, khiến họbịphân tán và giẫm đạp.

[

pdf17 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài thuyết trình Trận Agincourt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trận Agincourt Tọa độ: 50°27′49″B 2°08′30″Đ Trận Agincourt Một phần của Chiến tranh Trăm Năm Trận Agincourt, hình minh họa của thế kỷ 15 . Thời gian 25 tháng 10 (ngày Thánh Crispin) năm 1415 3 tháng 11 năm 1415 nếu tính theo lịch mới Địa điểm Agincourt, Pháp Kết quả Chiến thắng rõ ràng cho quân Anh Tham chiến Vương quốc Anh Vương quốc Pháp Chỉ huy Henry V của Anh Charles d'Albret † Lực lượng Các ước tính ngày nay vào khoảng 6.000[1] đến 9.000.[2] Khoảng 5/6 là lính bắn cung dài, 1/6 là các kỵ binh đã xuống ngựa chiến đấu với áo giáp nặng. Các ước tính ngày nay vào khoảng 36.000 (tỉ lệ 6:1 với quân Anh)[3] đến 12.000 (tỉ lệ 4:3 với quân Anh.[4] Có khoảng 10.000 kỵ binh (khoảng 1.200 trong đó trực tiếp chiến đấu trên lưng ngựa), nhiều ngàn quân bộ binh, lính nỏ và lính bắn cung (số lượng chưa rõ). Tổn thất Ít nhất có 112 người chết, số bị thương không rõ[3] Khoảng 7.000– 10.000 người chết và khoảng 1.500 quý tộc bị bắt sống[5] . Trận Agincourt là một chiến thắng lớn trong Chiến tranh Trăm Năm của quân Anh trước quân Pháp đông đảo hơn nhiều về mặt số lượng. Trận chiến diễn ra vào ngày thứ sáu 25 tháng 10 năm 1415 (ngày Thánh Crispin) tại một địa điểm gần Azincourt ngày nay, thuộc miền bắc Pháp.[6] Chiến thắng của Henry V đã làm nước Pháp lâm vào cảnh lụn bại và mở ra một thời kỳ mới của chiến tranh. Henry V sau đó lấy con gái của vua Pháp và con trai của họ được hứa hẹn sẽ nối dõi ngôi vua nước Pháp, tuy nhiên kế hoạch của ông cuối cùng đã không thành công. Henry V là người chỉ huy của quân Anh và cũng trực tiếp chiến đấu. Bên phía quân Pháp, do vua Pháp lúc đó là Charles VI không đủ sức khỏe nên người trực tiếp chỉ huy là tướng quân Charles d'Albret và nhiều quý tộc Pháp thuộc phái Armagnac. Trận chiến được nhớ tới với sự sử dụng cung dài với số lượng lớn của quân Anh, đa phần là các cung thủ người Anh và xứ Wales. Trận chiến cũng trở thành tâm điểm trong vở kịch nổi tiếng Henry V của William Shakespeare. Mục lục [ẩn]  1 Chiến dịch  2 Bố trí đội hình o 2.1 Bố trí của quân Anh o 2.2 Bố trí của quân Pháp o 2.3 Địa hình  3 Chiến đấu o 3.1 Những chuyển động mở đầu o 3.2 Kỵ binh Pháp tấn công o 3.3 Đợt tấn công chính của quân Pháp o 3.4 Quân Pháp tấn công xe chở hàng của Anh o 3.5 Henry ra lệnh giết các tù binh  4 Kết cục của trận chiến  5 Trận chiến trong văn hóa đại chúng  6 Tham khảo o 6.1 Sách o 6.2 Bài báo o 6.3 Khác  7 Chú thích [ ] Chiến dịch Cuộc xâm lược nước Pháp của Henry V diễn ra sau nhiều nỗ lực thương lượng không thành với người Pháp. Ông đòi hỏi danh hiệu vua Pháp thông qua thân thế của ông cố mình là Edward III, mặc dù thực tế thì các vị vua Anh sẽ sẵn sàng từ bỏ lời đòi hỏi này nếu người Pháp chấp nhận chủ quyền Anh ở Aquitaine và một số vùng khác thuộc Pháo (nội dung Hòa ước Bretigny).[7] Lúc đầu, Henry V triệu tập một hội đồng vào mùa xuân năm 1414 để thảo luận về việc gây chiến với Pháp, nhưng các quý tộc muốn ông thương lượng thêm và giảm bớt các yêu cầu. Trong các cuộc thương lượng sau đó, Henry bảo sẽ từ bỏ lời đòi hỏi ngôi vua Pháp nếu phía Pháp trả 1.6 triệu cua-ron từ vấn đề tiền chuộc của vua John II (bị bắt giữ trong trận Poitiers năm 1356), và phải thừa nhận chủ quyền Anh ở các vùng Normandy, Touraine, Anjou, Brittany, Flanders, và Aquitaine (các lãnh thổ từ tận thời Henry II hơn 200 năm về trước). Henry sẽ cưới công chúa Catherine của Charles VI và nhận 2 triệu cua-ron của hồi môn. Người Pháp chỉ chấp nhận ở mức hôn nhân với Catherine, của hồi môn 600.000 cua-ron, và một vùng Aquitaine được mở rộng thêm. Cuộc thương lượng đi vào bế tắc và người Anh cho rằng phía Pháp không tôn trọng các điều khoản họ đưa ra, cũng như là xúc phạm đến vua Henry V.[8] Tháng 12 năm 1414, quốc hội Anh được thuyết phục để cho Henry "khoản tiền trợ cấp gấp đôi", một loại thuế gấp hai lần bình thường, để ông có thể đòi hỏi lại quyền thừa kề từ nước Pháp. Vào ngày 19 tháng 4 năm 1415, Henry lại đề nghị hội đồng cho phép chiến tranh với Pháp, và lần này được chấp thuận.[9] Quân của Henry tới miền bắc nước Pháp vào ngày 13 tháng 8 năm 1415 và vây hãm cảng Harfleur với một quân đội khoảng 12.000 người. Cuộc vây hãm kéo dài lâu hơn dự kiến, và nơi đây chỉ đầu hàng vào ngày 22 tháng 9. Quân Anh đóng tại đây cho tới ngày 8 tháng 10. Thời gian có thể tiến hành các hoạt động quân sự đã hết (sắp tới mùa đông), và quân Anh cũng đã chịu khá nhiều thương vong vì dịch bệnh. Thế nhưng thay vì rút quân thẳng về Anh và chấp nhận việc chỉ thu được duy nhất một thành phố trong đợt ra quân lần này, Henry quyết định hành quân (với khoảng 9.000 binh sĩ) xuyên qua vùng Normandy để tới lãnh địa của Anh tại miền bắc Pháp là Calais. Mục đích của cuộc hành quân là để chứng tỏ sự hiện diện của mình ngay trước mặt kẻ thù, và khẳng định rằng lời đòi hỏi ngôi vua của ông không hề mơ hồ và không hề chỉ mang tính lịch sử (hiểu là: một vài vua Anh trước Henry V cũng đều tuyên bố quyền thừa kế ngôi vua Pháp, nhưng đó chỉ là những đòi hỏi hữu danh vô thực dựa vào thân thế lịch sử của họ, còn Henry muốn chứng tỏ là ông đủ khả năng để thực sự làm chuyện đó).[10] Ông cũng muốn dùng cuộc tiến quân như một lời khiêu chiến với vị thái tử (dauphin) của Pháp, người đã không trả lời khi Henry thách thức ông ta tại Harfleur.[11] Trong lúc quân Anh vây hãm, người Pháp đã tập hợp được một đội quân ở Rouen. Đó không hoàn toàn là một quân đội kiểu phong kiến, mà là một quân đội được trả lương theo kiểu tương tự người Anh. Phía Pháp hy vọng sẽ tuyển mộ được 9.000 quân, nhưng họ không kịp tới cứu Harfleur. Sau khi Henry V tiến quân về phía bắc, quân Pháp cũng di chuyển để phong tỏa họ dọc sông Somme. Henry buộc phải di chuyển về phía nam, xa khỏi Calais, để tìm một chỗ cạn. Ông cuối cùng cũng vượt qua được sông Somme tại nam Péronne, ở Béthencourt và Voyennes,[12][13] và tiếp tục hành quân lên phía bắc. Không có sông bảo vệ, người Pháp e ngại việc tiến hành giao chiến. Quân Pháp theo sát quân Anh trong lúc kêu gọi thêm nhiều quý tộc từ các vùng tới giúp sức. Ngày 24 tháng 10, hai đội quân đã giáp mặt nhưng quân Pháp không đánh vì muốn chờ thêm nhiều quân hơn. Hai đội quân nghỉ đêm trên đất trống và người Pháp đưa ra thêm nhiều lời thương lượng để trì hoãn, nhưng Henry quyết định tiến lên và bắt đầu một cuộc chiến mà ông có lẽ cũng không mong muốn hoặc muốn đánh theo kiểu phòng ngự (như kiểu trận Crécy). Lúc đó quân Anh có rất ít thực phẩm, vừa phải di chuyển 260 dặm trong 2 tuần rưỡi, đang bị nạn kiết lỵ, và phải đối mặt với nhiều quân Pháp được trang bị tốt hơn. Thế nhưng lúc này quân Pháp đã chặn đường về Calais để trú thân của quân Anh, và trì hoãn thêm trận chiến sẽ chỉ làm quân Anh suy yếu thêm và tạo điều kiện cho thêm nhiều toán quân Pháp tới tham chiến.[14] [ ] Bố trí đội hình Sơ đồ trận Agincourt Trận chiến diễn ra trên một dải đất hẹp trống trải giữa rừng Tramecourt và Agincourt (gần làng Azincourt ngày nay). Quân Pháp đóng ở phía bắc để chặn đường tiến về Calais của quân Anh. [ ] Bố trí của quân Anh Sớm ngày 25, Henry dàn quân (1.500 bộ binh và 7.000 cung thủ) trên 750 yard đất trong dải đất hẹp. Quân Anh được chia thành ba phân đội, quân tiên phong do Công tước xứ York chỉ huy, lực lượng chính do Henry chỉ huy và hậu quân do tướng Camoys chỉ huy. Một hiệp sĩ thân tín và nhiều kinh nghiệm là Thomas Erpingham giữ nhiệm vụ sắp xếp cung thủ.[15] Quân Anh bố trí như thường lệ là cung thủ ở hai bên cánh, các hiệp sĩ và bộ binh ở giữa. Có thể cũng có thêm vài cung thủ được xếp vào giữa. Bộ binh Anh mặc giáp và được xếp đứng cạnh nhau theo bốn lớp. Cung thủ Anh ở hai cánh cắm thêm cọc gỗ để cản trở kỵ binh địch. Chiến thuật này có lẽ học từ quân Ottoman trong trận Nicopolis năm 1396.[16] Quân Anh xưng tội trước khi tiến hành trận đánh, như phong tục lâu nay của họ.[17] Lo lắng việc quân địch có thể đột kích bất ngờ, và muốn quân lính thật tập trung, Henry lệnh cho họ phải hoàn toàn im lặng trong đêm trước trận chiến, ai bất tuân sẽ bị hình phạt là cắt một tai. Ông cũng bảo với binh sĩ rằng mình thà chết trên chiến trường còn hơn là bị bắt sống và đòi tiền chuộc.[18] Sáng hôm trận chiến, Henry động viên toàn quân, nhấn mạnh vào sự đúng đắn trong mục tiêu của ông, và nhắc lại những thắng lợi ngày xưa mà các vua Anh đã giành được trước người Pháp. Các nguồn sử từ Burgundy cho rằng ông đã kết thúc bài diễn văn bằng việc bảo với người của mình rằng quân Pháp đã khoe khoang là sẽ cắt hai ngón trong bàn tay phải của các xạ thủ Anh, để họ không bao giờ có thể bắn cung nữa (không rõ chuyện này có đúng không, vì rằng thời đó nếu binh sĩ bị bắt giữ mà không đáng giá tiền chuộc thì thường bị giết luôn).[19] [ ] Bố trí của quân Pháp Ngược lại, quân Pháp rất tự tin là mình sẽ đại thắng quân Anh, và rất háo hức xung trận. Quân Pháp cho rằng họ sẽ thắng, không chỉ là vì quân của họ mạnh hơn, sung sức hơn và trang bị tốt hơn, mà còn là vì rất nhiều kỵ sĩ quý tộc cho rằng mình có thể đánh bại dễ dàng các cung thủ Anh, những người mà họ xem như là không có ý nghĩa quan trọng trên chiến trường. Sử gia Edmond de Dyntner viết là "mười quý tộc Pháp chống lại một người Anh", tức bỏ qua hoàn toàn số lượng cung thủ.[20] Quân Pháp xếp theo ba hàng (hiểu là cả một phân đội chứ không phải là một hàng ngang duy nhất). Hàng đầu do Constable D'Albret, Marshal Boucicault, và các Công tước xứ Orléans và Bourbon chỉ huy, với một số kỵ binh bên cánh do Bá tước xứ Vendôme và Clignet de Brebant chỉ huy. Hàng thứ hai nằm dưới quyền Công tước xứ Bar và Alençon, cùng Bá tước xứ Nevers. Hàng thứ ba do các Bá tước xứ Dammartin và Fauconberg chỉ huy.[21] Sử gia Burgundy là Jehan de Waurin viết rằng quân Pháp có 8.000 binh sĩ, 4.000 lính bắn cung và 1.500 lính bắn nỏ ở tiền quân. Hàng thứ hai có số lượng tương tự, còn hàng cuối cùng gồm tất cả phần còn lại.[22] Nguồn khác nói có 4.800 quân ở hàng đầu, 3.000 quân ở hàng thứ hai, với thêm hai cánh khoảng 600 kỵ binh, nhưng không nói tới hàng thứ ba.[23] Có khoảng 8.000 kỵ binh giáp nặng của Pháp xuống ngựa để chiến đấu, và cần phải tiếp cận quân Anh để đánh cận chiến. Nếu họ tiếp cận được thì sẽ áp đảo quân bộ binh Anh với tỉ lệ có thể lên tới 5 trên 1, và cung thủ Anh cũng không thể bắn gần được vì sẽ dễ trúng phải chính quân mình. Nhiều người trong quân Pháp (cả quý tộc và binh sĩ) có cha ông từng bị sỉ nhục trong những trận đại bại ở Crécy và Poitiers nên họ rất quyết tâm báo thù. Nhiều nguồn sử Pháp nhấn mạnh rằng các quý tộc Pháp quá hăng hái trong việc đánh bại người Anh (và đòi tiền chuộc từ tù binh) đến mức khăng khăng đòi lên hàng đầu, bất chấp ý kiến của các tướng lĩnh và các hiệp sĩ nhiều kinh nghiệm.[24] Có vẻ như có nhiều ngàn quân Pháp ở hậu quân, bao gồm cả những người hầu và người bình dân mà phía Pháp không muốn, hoặc không thể bố trí vào hàng ngũ. De Waurin cho rằng tổng số quân Pháp là 50.000 người. Ông cũng nói rằng người Pháp có nhiều lính bắn nỏ và bắn cung nhưng lại không cho họ bắn vì không đủ chỗ đứng trên địa hình chật hẹp này (để dành chỗ cho các kỵ sĩ và bộ binh).[25] Lực lượng hậu quân này không tham gia gì nhiều vào trận đánh, các nguồn sử của Anh và Pháp đều đồng ý rằng họ đã tháo chạy hết sau khi thấy quá nhiều quý tộc Pháp bị giết và bắt sống. [ ] Địa hình Chiến trường của trận đánh này vẫn còn đang được tranh cãi rằng liệu nó có phải nhân tố quan trọng nhất quyết định đến kết quả trận đánh hay không. Địa hình vùng đất vừa mới bị cày xới và được viền bởi rừng là có lợi cho quân Anh vì nó hẹp và có lớp bùn dày mà các hiệp sĩ Pháp buộc phải đi bộ qua.[26] Loạt chương trình Battlefield Detectives của kênh History Channel đã có một số ý kiến về sự nhỏ hẹp của địa hình. Bộ binh Anh đứng sát với nhau, trong khi quân Pháp chia thành ba lớp theo chiều dọc và không thể đưa tất cả binh lực vào tham chiến cùng một lúc, cũng như là không thể bọc sườn quân Anh.[27] Khi những đợt quân của hàng đầu gục ngã cũng làm đường tiến lên của người Pháp thậm chí còn tắc nghẽn hơn, có một số phải đi bộ để vượt qua những người đã ngã xuống. Các nguồn sử miêu tả cuộc chiến cũng nói là quân Pháp đã tràn lên quá đông tới nỗi tự làm vướng chân tay mình trong một địa hình nhỏ hẹp như vậy.[28] Việc trận chiến diễn ra trên một địa hình bùn lầy đã khiến quân Pháp vô cùng mệt mỏi khi phải lội qua bùn trong khi vẫn mang giáp trụ nặng. Quân Pháp được miêu tả là bị ngập bùn tới đầu gối, còn sử gia Barker cho rằng một số thậm chí là bị ngập tới mũ.[29] Sự mệt mỏi và sự giới hạn vận động của họ đã khiến họ dễ dàng trở thành mục tiêu cho cung thủ Anh, hoặc thất bại trong những trận đánh cận chiến với bộ binh Anh. [ ] Chiến đấu [ ] Những chuyển động mở đầu Buổi sáng trước trận Agincourt, tranh của John Gilbert Vào sáng 25 tháng 10, quân Pháp vẫn đang chờ thêm nhiều binh sĩ tới. Công tước xứ Brabant (khoảng 2.000 quân),[30] Công tước xứ Anjou (khoảng 600 quân),[30] và Công tước xứ Brittany (khoảng 6.000 quân)[31] đều đang trên đường tới. Điều này làm quân Pháp không biết có nên tiến lên chưa. Trong vòng ba giờ đầu chưa có chiến đấu gì, cả hai đội quân chỉ dàn trận chờ đợi nhau.[32] Người Pháp đã chặn đường lui của Henry nên chẳng lấy gì làm vội. Họ còn cho rằng quân Anh sẽ tự bỏ chạy khi thấy phải chiến đấu với quá nhiều hoàng thân Pháp.[33] Quân của Henry thì trái lại đang mệt, vì vậy mà ông quyết định phải chủ động hơn. Henry đánh liều cho quân đội bỏ vị trí định trước và di chuyển tới phía trước.[34] Việc này đòi hỏi phải nhổ những cây cọc mà họ đã cắm sẵn để bảo vệ các cung thủ và đưa tới vị trí mới (cọc là một cải tiến của quân Anh, ta đều nhớ là trong trận Crécy thì cung thủ của họ chỉ được bảo vệ bởi các chướng ngại vật tự nhiên).[16] Nếu quân Pháp tấn công vào thời điểm đang di chuyển cọc thì rất có thể quân Anh sẽ bị đánh bại. Mặc dù vậy thì quân Pháp đã không đánh giá đúng tình hình này và bỏ qua cơ hội. Quân Pháp lúc đầu định để cung thủ ở phía trước các binh sĩ, nhưng rồi cuối cùng họ lại xếp họ xuống phía sau. Lực lượng lính bắn cung và nỏ này hầu như không tham gia gì nhiều, cùng lắm chỉ là một đợt tên mở màn. Kỵ binh Pháp có thể hủy diệt hàng ngũ quân Anh nếu tấn công trong lúc họ đang di chuyển cọc, nhưng thực tế là họ chỉ xông lên sau loạt tên đầu tiên của quân Anh. Không rõ đó là vì người Pháp chờ đợi quân Anh sẽ lao lên tấn công (và bị bất ngờ khi quân Anh bắn tên từ vị trí phòng thủ mới, ở gần họ hơn)[35] hay đơn giản là vì kỵ binh Pháp không phản ứng kịp với tình hình. Các sử gia Pháp cho rằng đợt tấn công đầu tiên của kỵ binh Pháp là không đủ quân số, một số người đang đi sưởi ấm và một số đang cho ngựa ăn.[36] Dù sao đi nữa thì cung thủ Anh cũng đã cắm xong cọc và là những người mở màn trận đánh. [ ] Kỵ binh Pháp tấn công Sau loạt tên mở màn của quân Anh, kỵ binh Pháp mặc dù chưa đủ lực lượng và sắp xếp còn lộn xộn nhưng vẫn xung phong tấn công các cung thủ. Và đó là một thảm cảnh cho họ khi các kỵ sĩ không thể bọc sườn các cung thủ Anh (do địa hình), và cũng không thể xông qua hàng rào cọc đang che chở các cung thủ. John Keegan nói là tác dụng chính của các cung thủ cung dài là ở chỗ họ bắn trúng lưng và bên sườn ngựa, làm chúng lồng lên.[37] Việc kỵ binh tiến lên và rồi thoái lui càng làm lớp bùn bị khuấy động lên. Juliet Barker trích một tài liệu đương thời rằng khi thoái lui hỗn loạn, ngựa của các kỵ binh Pháp đã tự làm rồi bộ binh của mình đang trên đường xông lên, khiến họ bị phân tán và giẫm đạp.[38] [ ] Đợt tấn công chính của quân Pháp Vua Henry V trên chiến trường, tranh của John Gilbert Viên đại tướng tổng chỉ huy của quân Pháp thân chinh dẫn đầu đợt tấn công chính đầu tiên, bao gồm các kỵ binh đã xuống ngựa đánh bộ. Các tài liệu phía Pháp mô tả trong đợt này họ có 5.000 quân và hơn quân bộ binh Anh với tỉ lệ 3 chọi 1, nhưng phải vượt qua đám bùn lầy dưới trận mưa tên. Áo giáp của quân Pháp giúp họ có thể vượt qua 300 yard để tiến tới chỗ quân Anh, nhưng họ phải hạ thấp miếng che và nghiêng đầu để tránh bị bắn vào mặt (chỗ mắt và lỗ thông khí là yếu điểm của áo giáp), qua đó gặp vấn đề về hơi thở và tầm nhìn. Và họ phải lội qua vài trăm yard bùn lầy với chiếc áo giáp nặng 50-60 pound.[39] Bộ binh Pháp cuối cùng cũng đã vượt qua trận mưa tên dữ dội mà Mortimer cho là lên tới 1.000 mũi tên mỗi giây,[40][41] tiếp cận với quân Anh và đã đẩy lui được họ, trong khi cung thủ Anh vẫn tiếp tục bắn cho tới khi hết tên và bỏ cung lao vào cận chiến. Mặc dù vậy thì trên đường đi quân Pháp đã bị va đập với quá nhiều tên, lội bùn với giáp quá nặng, phải hứng chịu cái nóng và sự thiếu ôxy trong bộ giáp, và có số lượng quá đông nên tự làm vướng nhau. Chính vì vậy mà họ "hầu như không nhấc nổi vũ khí" khi bắt đầu giao chiến với quân Anh.[42] Khi cung thủ Anh chuyển sang dùng rìu, kiếm và các loại vũ khí khác để tấn công quân Pháp đã mệt mỏi và lộn xộn, người Pháp đã không chống trả được những kẻ tấn công không mặc giáp (nhờ vậy ít bị bùn gây trở ngại hơn). Binh lính Pháp ngã gục và không đứng dậy nổi. Khi trận cận chiến đang diễn ra thì đợt tấn công thứ hai của quân Pháp cũng tới, nhưng vì địa hình quá chật hẹp nên có đông người hơn cũng không tràn lên được cùng một lúc. Nhiều ngàn quân Pháp bị bắt giữ và giết. Cuộc chiến kéo dài khoảng ba giờ, cuối cùng các chỉ huy của Pháp ở cả hai đợt tấn công đều bị bắt giết. Gesta Henrici mô tả về ba đống xác chết lớn xếp xung quanh ba cờ hiệu của Anh.[43] Theo các nguồn sử đương thời, Henry có trực tiếp tham gia trận cận chiến. Khi hay tin em trai nhỏ nhất của mình là Humphrey, Công tước Gloucester, đã bị thương, Henry đã chiến đấu ngay trên hàng đầu để bảo vệ em mình cho đến khi Humphrey được đưa đi an toàn. Ông bị trúng một búa vào đầu làm văng mất một mảnh nón giáp trụ.[44] [ ] Quân Pháp tấn công xe chở hàng của Anh Thắng lợi duy nhất của người Pháp là một cuộc tấn công vào các xe chở hàng của Anh. Một hiệp sĩ địa phương của Pháp tên Ysembart d'Azincourt đã chỉ huy một nhóm nhỏ tới đột kích, và họ đã cướp được một số báu vật cá nhân của Henry, bao gồm cả một vương miện.[45] Các nguồn sử không thống nhất về việc đây là cuộc tấn công có chủ định của quân Pháp hay chỉ là cướp bóc đơn thuần. Một vài tài liệu cho rằng cuộc đột kích này diễn ra lúc gần cuối trận chiến và làm quân Anh tưởng là họ bị bọc hậu. Barker thì nghiêng về giả thuyết rằng nó diễn ra vào đầu trận chiến.[46] [ ] Henry ra lệnh giết các tù binh Cho dù vụ cướp xe diễn ra vào lúc nào đi nữa, có một thời điểm sau thắng lợi của quân Anh mà Henry nhận được cảnh báo rằng quân Pháp đang tập hợp lại để tấn công tiếp. Gesta Henrici mô tả nó diễn ra sau cuộc tàn sát các binh sĩ Pháp trên chiến trường, và khi quân Anh đang mệt mỏi thì quan sát thấy hậu quân của Pháp (với số lượng lớn và sung sức).[47] Tương tự, Le Fevre and Waurin cho rằng đã có các dấu hiệu của hậu quân Pháp tập hợp lại và tràn lên có hàng ngũ, điều này làm quân Anh lo rằng họ vẫn bị nguy hiểm.[48] Dù cho giả thuyết lý giải nào thực sự đúng đi nữa thì Henry cũng đã ra lệnh giết khoảng vài ngàn tù binh Pháp và chỉ tha cho những người có đẳng cấp cao nhất. Ông sợ rằng họ sẽ lấy được vũ khí để quay lại chiến trường, và đánh bại quân Anh đã kiệt sức. Mặc dù tàn nhẫn, đây có thể xem là một hành động chính đáng nếu xét tới tình hình trận chiến lúc đó. Có lẽ đáng ngạc nhiên là các sử gia Pháp cũng không chỉ trích Henry vì điều này.[49] Hành động của ông đã đánh dấu sự kết thúc của trận chiến, với việc hậu quân Pháp rút lui khi thấy có quá nhiều quý tộc bị bắt giữ và giết chết. [ ] Kết cục của trận chiến Do không có nguồn sử đáng tin cậy nên không biết chính xác số thương vong của hai bên là bao nhiêu. Tuy nhiên chắc chắn là dù quân Anh bị áp đảo về số lương nhưng thương vong của họ ít hơn hẩn quân Pháp. Nguồn từ Pháp cho rằng có 4.000 đến 10.000 quân Pháp tử trận, cùng 1.600 quân Anh. Tỉ lệ thấp nhất mà họ đưa ra là quân Pháp tử trận nhiều hơn quân Anh sáu lần. Nguồn từ Anh nói có khoảng từ 1.500 đến 11.000 quân Pháp tử trận, còn số chết của quân Anh không quá 100.[50] Barker cho rằng có ít nhất 112 quân Anh đã tử trận, nhưng không tính tới số bị thương.[51] Một ước tính được dùng rộng rãi đã tính rằng tổn thất của quân Anh là 450, ít hơn nhiều so với vài ngàn của Pháp. Sử dụng các con số ước tính thấp nhất của Pháp thì tỉ lệ tổn thất của Pháp so với Anh có thể lên tới 9 trên 1, hoặc 10 trên 1 nếu xét cả những tù nhân. Trong số những người Pháp bị giết có ba công tước, ít nhất tám bá tước, một tử tước và một tổng giám mục, cùng nhiều nhà quý tộc và tướng quân.[52] Juliet Barker nói rằng những mất mát này đã làm tầng lớp lãnh đạo của Pháp ở Artois, Ponthieu, Normandy, và Picardy thiệt hại đáng kể.[53] Số lượng tù binh người Pháp bị bắt giữ khoảng từ 700 đến 2.200 và đều là các quý tộc.[54] Mặc dù trận Agincourt là một chiến thắng quân sự lớn, những ảnh hưởng của nó khá phức tạp. Nó không dẫn tới những cuộc chinh phạt ngay lập tức sau đó của người Anh. Henry trở về Anh vào ngày 16 tháng 11 với vinh quang,[55] và trong mắt các thần dân và các nước châu Âu ngoại trừ Pháp, ông được xem là một anh hùng được Chúa ban ơn. Chiến thắng cũng giúp ông nhận được sự ủng hộ của triều đình để tiếp tục chiến tranh với Pháp.[56] Sau trận chiến, hòa ước giữa hai phái Armagnac và Burgundy trong triều đình Pháp đã bị phá vỡ. Phái Armagnac chính là những người chủ đạo bên phía Pháp trong trận Agincourt, qua đó họ phải gánh chịu nhiều tổn thất về nhân lực và uy tín sau thất bại này. Phái Burgundy nhân cơ hội đánh chiếm Paris.[57] Sự bất hòa ở Pháp giúp Henry có 18 tháng chuẩn bị cho các chiến dịch tiếp theo. Mất thêm vài năm nữa nhưng rồi ông đã đạt được những gì mình đề ra. Những chiến thắng sau đó của Henry đã đưa tới Hiệp ước Troyes. Theo hiệp ước này, Henry sẽ cưới con gái của vua Charles VI của Pháp là Catherine, và rồi đứa con sinh ra từ cuộc hôn nhân này sẽ cai trị cả nước Anh và Pháp. Sau đó, Henry chính thức tiến vào Paris và Hiệp ước này được phê chuẩn bởi Hội nghị ba đẳng cấp của Pháp. Đó là đỉnh cao của người Anh trong Chiến tranh Trăm Năm. [ ] Trận chiến trong văn hóa đại chúng Ngay sau chiến thắng của người Anh, đã có nhiều bài ca dân gian ra đời dựa trên trận chiến, nổi tiếng nhất là bài Agincourt Carol vào đầu thế kỷ 15.[58] Ngoài ra cũng có nhiều ballad về trận chiến, ví dụ như bài King Henry Fifth's Conquest of France.[59] Sự miêu tả trận chiến trong văn hóa đại chúng mà được biết đến nhiều nhất là vở kịch Henry V của Shakespeare vào năm 1599, trong đó tập trung vào những áp lực của một vị vua trên ngôi báu.[60] Vở kịch được ba lần chuyển thể thành phim, bởi Laurence Olivier vào năm 1944, bởi Kenneth Branagh vào năm 1989, và bởi Peter Babakitis vào năm 2004. Dấu hiệu giơ hai ngón tay thành hình chữ V cũng được một số người cho rằng bắt nguồn từ trận Agincourt.[61]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfls_phap_34__12.pdf
Tài liệu liên quan