Với việc ông chấm dứt cuộc chiến tranh tôn giáo thì chếđộquân chủPháp cận đại
đã được lập nên.
[1]
Triều đại Henri IV có ảnh hưởng lâu dài trên nhiều thếhệ
người Pháp. Năm 1614, người ta đúc tượng đểtưởng niệm Henri, bức tượng được
đặt tại Pont Neuf ởParis. Vào thếkỷ18, đại văn hào Voltaireca ngợi công đức
của ông trong bản anh hùng ca Henriade.
[1]
Mặc dù tượng Henri IV –cùng chung
sốphận với tất cảcác tượng vua chúa Pháp –bịphá hủy trong cuộc Cách mạng
Pháp, đó là bức tượng đầu tiên được làm lại, vào năm 1818, vẫn còn tại Pont Neuf
cho đến ngày nay. Trong thời kỳphục hồi vương quyền dưới triều Bourbon, xuất
hiện tình trạng sùng bái cá nhândành cho Henri. Nhà Bourbon, vì muốn làm giảm
nhẹgiai đoạn phân hóa dưới thời trịvì của Louis XVvà Louis XVI, đã tập trung
vào nhữngnăm thái hòa dưới quyền cai trịcủa vịquân vương giàu lòng nhân ái
Henri IV. Ca khúc "Vive Henri IV" (Đức Vua Henri IV muôn năm) trởnên quốc
ca không chính thức của nước Pháp trong thời kỳnày, dù nhà vua đã qua đời từ
lâu. Khi Công chúa Maria Carolinahạsinh một con trai đểnối ngôi nước Pháp,
bảy tháng sau khi chồng bà, Charles Ferdinand, Công tước Berry, bịám sát bởi
một người theo chủtrương cộng hòa cuồng tín, đứa bé (tức Henri của Artois)được
đặt tên Henri với gợi ý vềtổphụHenri IV. Cậu bé chịu lễrửa tội theo nghi thức
Navarre, với một muỗng vang Jurançonvà một ít tỏi, theo cách Henri IV từng làm
khi được rửa tội tại Pau, mặc dù tập quán này đã bịnhà Bourbon cấm đoán. Cậu
bé này vềsau trởthành Henri V của Pháp, vịvua Pháp trên danh nghĩa đã ởngôi
được 5ngày sau cuộc Cách mạng tháng 7lật đổvua Charles X
15 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bài thảo luận về Henri IV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Henri IV
Vua của Pháp và Navarre
Tại vị 2 tháng 8 năm 1589 – 14 tháng 5 năm 1610
Đăng quang 27 tháng 2 năm 1594, Chartres
Tiền nhiệm Henri III của Pháp
Kế nhiệm Louis XIII của Pháp
[hiện]Hậu duệ
Tên đầy đủ
Henri de Bourbon
Hoàng tộc Nhà Bourbon
Thân phụ Antoine de Bourbon
Thân mẫu Jeanne III của Navarre
Sinh 13 tháng 12 năm 1553
Pau, Pháp
Mất 14 tháng 5 năm 1610
Paris, Pháp
An táng Nhà thờ Saint-Denis, Pháp
Henri IV của Pháp, cũng gọi là Henri III của Navarre, (13 tháng 12 năm 1553
– 14 tháng 5 năm 1610), là Vua nước Pháp từ năm 1589 đến 1610, từng là Vua
Vương quốc Navare (Henri III) từ năm 1572 đến 1610. Henri IV là quân vương
đầu tiên của dòng Bourbon thuộc triều đại Capet nước Pháp. Thân mẫu của ông là
Jeanne III của Navarre, thân phụ là Antoine de Bourbon, Công tước của Vendôme.
Là một tín hữu Kháng Cách (Huguenot), Henri tham gia cuộc Chiến tranh Tôn
giáo trước khi đăng quang làm vua nước Pháp năm 1589. Năm 1598, Henri ban
chỉ dụ Nantes bảo đảm quyền tự do tôn giáo cho người Kháng Cách, nhờ đó mà
kết thúc cuộc nội chiến. Để được ngai báu và sự ủng hộ của dân Pháp, Henri chấp
nhận cải đạo từ Kháng Cách (theo thần học Calvin) sang Công giáo với câu nói trứ
danh "'Paris vaut bien une messe'" (Paris xứng đáng cho một lễ Misa). Là một
trong những quân vương được lòng dân nhất, Henri luôn quan tâm đến phúc lợi
của thần dân, và kiên định với lập trường bao dung tôn giáo, một quan điểm khác
thường vào thời ấy. Henri mất ngày 14 tháng 5 năm 1610, nhà vua bị François
Ravaillac, một người Công giáo cuồng tín, ám sát.
Henri còn có biệt danh Henri Đại đế (Henri le Grand), ở Pháp, người ta còn gọi
ông là le bon roi Henri (Vua Henri Nhân ái), hoặc le Vert galant (Ông Xanh hào
hiệp).
Mục lục
[ẩn]
1 Phả hệ
2 Cuộc đời
3 Ám sát
4 Ảnh hưởng
5 Gia quyến
o 5.1 Ngoại hôn
6 Tổ phụ
7 Xem thêm
8 Chú thích
9 Tài liệu tham khảo
10 Liên kết ngoài
[ ] Phả hệ
Henri IV là con trai của Antoine de Bourbon, Công tước xứ Vendome và Jeanne
d'Albret, Nữ hoàng xứ Navarre. Henri chào đời tại lâu đài Pau, thuộc tỉnh
Pyrénées-Atlantiques, đông nam nước Pháp (trước đây là tỉnh Béarn). Khi vua
nước Pháp là Henri III qua đời mà không có con nối dõi, ngai báu được truyền cho
Henri IV, theo luật Salic, nguyên tắc truyền ngôi cho hậu duệ nam giới lớn tuổi
nhất thuộc dòng họ Capet. Tuy nhiên, tân vương bị buộc phải tranh đấu một thời
gian trước khi được người Công giáo (đa số chống đức tin Kháng Cách) công nhận
là quân vương chính thức của nước Pháp.
[ ] Cuộc đời
Mặc dù chịu lễ rửa tội (báp têm) theo nghi thức Công giáo Rôma, Henri được mẹ
giáo dưỡng trong đức tin Kháng Cách; Jean d’Albret công bố Thần học Calvin là
quốc giáo của Vương quốc Navarre. Từ lúc còn niên thiếu, Henri đã gia nhập lực
lượng Huguenot tham gia Chiến tranh Tôn giáo Pháp. Ngày 9 tháng 6 năm 1572,
khi Jeanne tạ thế, cậu trở thành Vua Henri III của Navarre.
Ngày 18 tháng 8 năm 1572, Henri kết hôn với Marguerite de Valois, em gái của
vua Charles IX. Nhiều người tin rằng cuộc hôn nhân này là kết quả của một nỗ lực
hòa giải hầu có thể mang hòa bình đến cho đất nước. Tuy nhiên, một số người
Công giáo (trong đó có Catherine de’ Medici, mẹ của cô dâu) bí mật hoạch định
một vụ tàn sát người Kháng Cách khi họ tụ họp về Paris để dự hôn lễ. Trong vụ
thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy, ngày 24 tháng 8, có vài ngàn người Kháng
Cách thiệt mạng tại Paris, và thêm vài ngàn người khác bị sát hại ở vùng quê. Nhờ
giả vờ đồng ý cải đạo mà Henri thoát chết, bị cầm tù, nhưng trốn thoát vào đầu
năm 1576; ngày 5 tháng 2 cùng năm, tại Tours Henri bác bỏ đức tin Công giáo và
tái gia nhập lực lượng Kháng Cách.
Vua Henri III của Pháp
Năm 1584, khi François, Công tước xứ Alençon, em trai và là người kế vị nhà vua
Công giáo Henri III (năm 1574, Henri III kế vị Charles IX) qua đời, Henri Navarre
trở thành người chính thức kế thừa ngai báu nước Pháp. Bởi vì Henri là hậu duệ
của Vua Louis IX, Henri III buộc phải thừa nhận Henri là người kế vị hợp pháp.
Luật Salic không công nhân quyền thừa kế của chị em gái nhà vua, cũng như mọi
phụ nữ khác trong hoàng tộc. Song, do Henri Navarre thuộc phe Huguenot, nhân
tố khởi phát Chiến tranh ba Henri, một phần trong Chiến tranh Tôn giáo Pháp.
Henri thứ ba, Công tước Henri nhà Guise, đẩy mạnh cuộc trấn áp người Huguenot
và triệt để ủng hộ phe Công giáo, gây ra một loạt các chiến dịch tấn công và chiến
dịch phản công mà cao điểm là trận Coutras. Tháng 12 năm 1588, Henri III cho
ám sát Henri nhà Guise và người em, Hồng y Louis de Guise, khiến tình hình trở
nên căng thẳng, kết cuộc là Henri III thiệt mạng bởi tay một tu sĩ cuồng tín trong
một vụ ám sát.
Khi Henri III băng hà năm 1589, Henri Navarre trở thành vua nước Pháp. Nhưng
Liên minh Công giáo, với hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là Tây Ban Nha, tập hợp
lực lượng đủ mạnh để buộc ông phải chạy xuống phương nam, tại đây Henri khởi
quân chiếm lại vương quốc với sự trợ giúp từ Elizabeth I của Anh. Liên minh
Công giáo tôn Hồng y Charles de Bourbon làm vua Charles X, nhưng trước đó
(tháng 12 năm 1588) Charles đã bị Henri bắt giam. Henri thắng trận tại Ivry và
Arques, nhưng không chiếm được Paris.
Năm 1590, sau khi Charles qua đời, Liên minh Công giáo trở nên bất hòa. Một số
ủng hộ các ứng viên thuộc nhà Guise, trong đó có Infata Isabella, con gái Vua
Felipe II của Tây Ban Nha, mẹ của Isabella là trưởng nữ của Henri II của Pháp.
Điều này gây tổn hại cho uy tín của Liên minh vì bị xem là một công cụ của ngoại
bang.
Gabrielle d'Estrees
Theo lời khuyên của người tình chung thủy Gabrielle d'Estrées, ngày 25 tháng 7
năm 1593, Henri tuyên bố "Paris vaut bien une messe" (Paris xứng đáng cho một
lễ Misa) và quyết định cải đạo, gây bất bình cho phe Huguenot và đồng minh cũ
của ông, Nữ hoàng Elizabeth I. Tuy nhiên, việc gia nhập Giáo hội Công giáo
Rôma bảo đảm cho Henri lòng trung thành của đa số thần dân. Sau đó, lễ đăng
quang được tổ chức tại nhà thờ Đức Bà Chartres vào ngày 27 tháng 2 năm 1594.
Năm 1598, nhà vua ra Chỉ dụ Nantes, ban cho người Huguenot một số quyền tự do
hạn chế.
Cuộc hôn nhân đầu tiên không mang đến cho Henri con cái lẫn hạnh phúc. Hai
người ly thân, từ tháng 8 năm 1589, Marguerite de Valois sống trong lâu đài
Usson ở Auvergne. Sau khi lên ngôi, khi các cố vấn yêu cầu nhà vua chọn người
nối dõi, Henri muốn hủy bỏ hôn ước và cưới Gabrielle d'Estrées, lúc ấy đã có ba
con với Henri, nhưng bị phản đối dữ dội. Vấn đề được giải quyết ổn thỏa khi
Gabrielle d'Estrées đột ngột từ trần vào tháng 4 năm 1599 khi sinh non người con
thứ tư. Năm 1599, hôn ước với Marguerite bị hủy bỏ, Henri kết hôn với Marie de
Médicis năm 1600.
Henri IV là một nhà lãnh đạo can đảm và có tầm nhìn. Thay vì mở các cuộc chiến
tốn kém chống lại các nhà quí tộc đối nghịch, Henri chọn cách trả tiền để thu phục
họ. Là quân vương, Henri theo đuổi những chính sách và thực thi các đề án có
mục tiêu nâng cao mức sống cho người dân, nhờ đó ông được xem là một trong
những nhà cai trị được lòng dân nhất.
Một tuyên bố được cho là của nhà vua:
“ Si Dieu me prête vie, je ferai qu’il n’y aura point de laboureur en mon
royaume qui n’ait les moyens d’avoir le dimanche une poule dans son
pot!
(Theo ý Chúa, mỗi người lao động trong vương quốc của trẫm ít nhất
cũng có được một con gà trong nồi vào mỗi Chủ nhật!) ”
Câu nói này thể hiện thời kỳ thái bình và tương đối thịnh vượng mà Henri đã đem
đến cho nước Pháp, sau những thập kỷ chiến tranh, cũng như thể hiện sự hiểu biết
của nhà vua về hoàn cảnh của giới lao động và nông dân Pháp. Chưa hề có một
quân vương nào của nước Pháp chịu quan tâm xem người nông dân có nổi một
con gà để dùng bữa vào mỗi chủ nhật, hoặc biết đến gánh nặng sưu thuế oằn vai
người dân, cho đến khi bùng nổ cuộc Cách mạng Pháp. Sau những thế hệ vua chúa
nhà Valois đắm mình trong cuộc sống xa hoa phóng túng, khiến người dân Pháp
trở nên thiếu đói vì phải trả giá cho những mưu mô tranh quyền đoạt lợi, và cho
các loại chi tiêu hoang phí của hoàng tộc, thì những đức tính này của Navarre đã
khiến nhà vua được thần dân hết lòng mến yêu.
Tính chính trực, lòng dũng cảm, và những chiến tích của Henri là hình ảnh đối cực
với tình trạng bạc nhược, suy kiệt vì bệnh tật của các quân vương sau cùng thuộc
nhà Valois, nhất là khi Henri tuyên bố sẽ “ngồi trên lưng ngựa, vũ khí trong tay”
(on a le bras armé et le cul sur la selle) mà cai trị đất nước.
Trong triều chính, Henri IV đặt lòng tin vào Maximilien de Bethune, Công tước
của Sully (1560-1641), một cận thần trung thành với nhà vua trong nỗ lực qui
hoạch nền tài chính quốc gia, phát triển nông nghiệp, thoát nước các vùng đầm lầy
để biến thành đất canh tác, xây dựng các tiện ích công, tiến hành các đề án giáo
dục như thiết lập College Royal Louis-Le-Grand ở La Flèche, nay là Trường
Thiếu sinh quân quốc gia. Nhà vua và Sully ban hành chính sách bảo vệ rừng, xây
dựng một hệ thống xa lộ có trồng cây hai bên đường, cũng như xây cầu và phát
triển kênh đào. Nhà vua đã cho xây dựng một kênh đào dài 1.200 m trong công
viên lâu đài Fontainebleau, và cho trồng thông, du và các loại cây ăn trái ở đó.
Henri bắt tay tái thiết Paris xứng tầm một đại đô thị, cho xây dựng tiếp Pont Neuf
nối hai bờ sông Seine. Nhà vua cho xây quảng trường Hoàng gia (ngày nay là
quảng trường Vosgues), và xây dựng thêm Grande Galerie cho cung điện Louvre.
Với chiều dài 400 m và 35 m chiều ngang dọc theo bờ sông Seine, đây công trình
kiến trúc dài nhất thế giới vào thời ấy. Vua Henri IV cũng là nhà bảo trợ nghệ
thuật cho tất cả tầng lớp dân chúng, nhà vua cho mời hàng trăm nghệ sĩ và nghệ
nhân đến sống và làm việc tại các tầng thấp trong tòa nhà. Truyền thống này được
tiếp nối trong hai trăm năm kế tiếp, trước khi bị chấm dứt dưới triều Hoàng đế
Napoléon I. Từ đó, nghệ thuật và kiến trúc trong thời kỳ nhà vua trị vì được mệnh
danh phong cách Henri IV.
Tầm nhìn của Henri IV không chỉ giới hạn trong lãnh thổ nước Pháp, nhà vua tài
trợ các cuộc thám hiểm của Pierre Dugua, Sieur de Monts và Samuel de
Champlain đến Bắc Mỹ, cũng như chứng kiến nước Pháp tuyên bố chủ quyền trên
Canada.
[ ] Ám sát
Henri IV bị ám sát 14 tháng 5 năm 1610
Tượng Henri IV tại Pont Neuf
Tuy Henri là một vị quân vương nhân ái, giàu lòng trắc ẩn, hóm hỉnh và được thần
dân yêu mến, nhưng ông cũng là mục tiêu của nhiều vụ mưu sát (chẳng hạn như
của Pierre Barriere và Jean Chatel). Ngày 14 tháng 5 năm 1610, tại Paris, Vua
Henri IV bị mưu hại bởi François Ravaillac, một người Công giáo cuồng tín.
Ravaillac đâm nhà vua đến chết khi ông đang ngồi trên xe. Henri được an táng tại
Basilique de Saint-Denis. Hoàng hậu Marie de Médicis, trở thành nhiếp chính cho
con trai chín tuổi của bà, Louis XIII, cho đến năm 1617.
[ ] Ảnh hưởng
Với việc ông chấm dứt cuộc chiến tranh tôn giáo thì chế độ quân chủ Pháp cận đại
đã được lập nên.[1] Triều đại Henri IV có ảnh hưởng lâu dài trên nhiều thế hệ
người Pháp. Năm 1614, người ta đúc tượng để tưởng niệm Henri, bức tượng được
đặt tại Pont Neuf ở Paris. Vào thế kỷ 18, đại văn hào Voltaire ca ngợi công đức
của ông trong bản anh hùng ca Henriade.[1] Mặc dù tượng Henri IV – cùng chung
số phận với tất cả các tượng vua chúa Pháp – bị phá hủy trong cuộc Cách mạng
Pháp, đó là bức tượng đầu tiên được làm lại, vào năm 1818, vẫn còn tại Pont Neuf
cho đến ngày nay. Trong thời kỳ phục hồi vương quyền dưới triều Bourbon, xuất
hiện tình trạng sùng bái cá nhân dành cho Henri. Nhà Bourbon, vì muốn làm giảm
nhẹ giai đoạn phân hóa dưới thời trị vì của Louis XV và Louis XVI, đã tập trung
vào những năm thái hòa dưới quyền cai trị của vị quân vương giàu lòng nhân ái
Henri IV. Ca khúc "Vive Henri IV" (Đức Vua Henri IV muôn năm) trở nên quốc
ca không chính thức của nước Pháp trong thời kỳ này, dù nhà vua đã qua đời từ
lâu. Khi Công chúa Maria Carolina hạ sinh một con trai để nối ngôi nước Pháp,
bảy tháng sau khi chồng bà, Charles Ferdinand, Công tước Berry, bị ám sát bởi
một người theo chủ trương cộng hòa cuồng tín, đứa bé (tức Henri của Artois)được
đặt tên Henri với gợi ý về tổ phụ Henri IV. Cậu bé chịu lễ rửa tội theo nghi thức
Navarre, với một muỗng vang Jurançon và một ít tỏi, theo cách Henri IV từng làm
khi được rửa tội tại Pau, mặc dù tập quán này đã bị nhà Bourbon cấm đoán. Cậu
bé này về sau trở thành Henri V của Pháp, vị vua Pháp trên danh nghĩa đã ở ngôi
được 5 ngày sau cuộc Cách mạng tháng 7 lật đổ vua Charles X.
[ ] Gia quyến
Ngày 18 tháng 8 năm 1572, Henri kết hôn với Marguerite de Valois, năm 1599
hủy hôn ước, hai người không có con.
Ngày 17 tháng 12 năm 1600, Henri kết hôn với Marie de Médicis. Họ có sáu
người con:
Tên Sinh Mất Ghi chú
Louis XIII, Vua
Pháp
27 tháng 9
năm 1601
14 tháng 5
năm 1643
Kết hôn với Anne của Áo (1601 -
1666) năm 1615. Có con.
Elizabeth, Hoàng
hậu Tây Ban Nha
22 tháng
11 năm
1602
6 tháng 10
năm 1644
Kết hôn với Felipe IV, Vua Tây Ban
Nha (1605 - 1665) năm 1615. Có con.
Christine Marie,
Nữ Công tước của
Savoy
12 tháng 2
năm 1606
27 tháng
12 năm
1663
Kết hôn với Victor Amadeus I, Công
tước của Savoy (1587 - 1637) năm
1619. Có con.
Nicholas Henri,
Công tước của
Orleans
16 tháng 4
năm 1607
17 tháng
11 năm
1611
Chết trẻ. Không con.
Gaston, Công tước
của Orleans
25 tháng 4
năm 1608
2 tháng 2
năm 1660
Kết hôn với (1) Marie de Bourbon, Nữ
Công tước của Montpensier (1605 -
1627) năm 1626. Có con.
Kết hôn với (2) Margaret xứ Lorraine
(1615 - 1672) năm 1632. Có con.
Henrietta Maria,
Hoàng hậu Anh
25 tháng
11 năm
1609
10 tháng 9
năm 1669
Kết hôn với Charles I, Vua Anh (1600 -
1649) năm 1625. Có con.
[ ] Ngoại hôn
Người ta tin là Henri IV có ít nhất mười một người con ngoại hôn[2].
Với Gabrielle d’Estrée:
Tên Sinh
Được
thừa
nhận
Mất Ghi chú
César de Bourbon,
Công tước của
Vendôme
1594 1596 1665
Kết hôn với Françoise of Mercoeur, có
con.
Năm 1626, tham gia một âm mưu chống
Hồng y Richelieu, bị bắt và cầm tù trong 3
năm. Năm 1641, bị buộc tội mưu phản,
đào thoát sang Anh.
Catherine-
Henriette de
1596 1598 1663
Kết hôn với Charles của Guise-Lorraine,
Công tước của Elbeuf.
Bourbon
Alexandre,
Chevalier de
Vendôme
1598 1599 1629
Với Catherine Henriette de Balzac d'Entragues, Nữ Hầu tước của Verneuil:
Tên Sinh
Được
thừa
nhận
Mất Ghi chú
Gaston Henri, Công tước
của Verneuil
1601 1603 1682
Kết hôn với Charlotte Seguier,
con gái của Pierre Séguier,
Công tước Villemor.
Gabrielle Angelique, còn
gọi là Mademoiselle de
Verneuil
1603 1627
Kết hôn với Bernard de Nogaret
de Foix, Công tước của La
Valette và Epernon.
Với Jacqueline de Bueil, Nữ Bá tước của Moret (1580-1651):
Tên Sinh
Được thừa
nhận
Mất Ghi chú
Antoine, Bá tước của
Moret
1607 1608 1632
Tu viện trưởng St.
Etienne
Với Charlotte des Essarts, Nữ Bá tước của Romorantin:
Tên Sinh Được thừa nhận Mất Ghi chú
Jeanne Baptiste 1608 1608 1670 Nữ tu viện trưởng Fontevrault.
Marie Henriette 1609 1629 Nữ tu viện trưởng Chelles.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ls_phap_17__9937.pdf