Tiếp đó, năm 1460Mehmed II lại xua quân xâm chiếm lãnh địa của người
Byzantine ởchâu Âu là Moreatrên bán đảo Peloponnese. Đến năm sau, Mehmed
lại xâm chiếm Đếquốc Trebizond ởchâu Á. Kết quảlà hai lãnh địa cuối cùng của
người Đông La Mã đều nằm dưới sựcai trịcủa Đếquốc Ottoman. Cuộc chinh
phạt Constantinopolis đã đem lại niềm vinh dựvà thanh thếlớn cho người Thổ.
Quân Ottoman tiến về Đông Âu, tới cửa ngõ Beogradvà bắt đầu nỗlực đánh
chiếm thành phốnày từtay tướng Janós Hunyaditrong Cuộc vây hãm Beograd
năm1456. Các tướng Hungary giữđược thành, quân Ottoman phải rút lui với tổn
thất nặng nề. Dù vậy, cuối cùng thì người Thổcũng chiếm được hầu hết Serbia.
Năm sau (1463), sau một cuộc tranh chấp về cống vật của vương quốc Bosnia,
Mehmed đã chinh phạt Bosnia và nhanh chóng toàn thắng, vua cuối cùng của
Bosnia là Stjepan Tomasevicbại vong.
Ông cũng gây chiến với chư hầucũ của mình là vương công Vlad III Draculaxứ
Wallachia. Năm 1462Mehmed II đã gặt hái thảm bại khi bịVlad tấn công trong
cuộc tấn công ban đêm. Thếrồi, Mehmed chuyển sang giúp đỡanh trai Vlad là
Raduđểtrảthù cho những thất bại của quân đội Ottoman trên mặt trận. Với sựhỗ
trợcủa người Thổ, Radu nhanh chóng tước đoạt lãnh địa Wallachia trong cùng
năm đó và buộc Vlad phải chạy trốn khỏi Wallachia.
Năm 1475, quân Ottoman giao chiến với Moldaviavà bịhoàng thân Stefan III
đánh tan tành trong trận Vaslui. Tuy nhiên đến năm 1476Mehmed trảđược thù
khi tiêu diệt gần như hoàn toàn quân đội ít ỏi của Moldavia trong trận Valea Albă.
Tiếp đó ông tiến quân đến Suceavavà cướp bóc,tàn phá thủphủcủa vùng này,
mặc dù sau đó ông đã thất bại trong việc đánh chiếm lâu đài Suceava và pháo đài
Piatra Neamţ. Đúng lúc đó thì một trận dịch bùng lên trong hàng ngũ quân
Ottoman, đồng thời với nguồn nước trởnên thiếu hụt và hoàng thân StefanIII lại
nhận được 3 vạn viện binh do cựu thù của Mehmed, Vlad III Dracula chỉhuy.
Mehmed II buộc phải bỏdởchiến dịch và quân đội Ottoman triệt thoái.
Năm 1480, Mehmed II chinh phạt bán đảo Ý, đểthực hiện mưu đồ“thống nhất Đế
quốc La Mãcổđại” của Mehmed. Thoạt đầu, quân Ottoman dễdàng đánh chiếm
thành phố Otrantovào năm 1480, nhưng ngay năm sau (1481)quân đội của Giáo
hoàngđã đoạt lại vùng này sau khi Mehmed qua đời.
Trong những năm 1443 -1468, Đếquốc Ottoman phải đối phó với cuộc khởi
nghĩa của nhân dân Albaniado Skanderbeglãnh đạo. Skanderbeg nguyên là một
nhà quý tộc Albania và là đại diện của nhà Ottoman tại Albania dưới thời Murad II.
Nhưng thay vì phục vụcho sultan, Skanderbeg đã vùng lên khởi nghĩa và cốgắng
lôi kéo lực lượng của các hoàng thân Albania yêu nước, nhắm cùng đấu tranh
chống lại ách đô hộcủa nhà Ottoman. Cuộc khởi nghĩa này đã ngăn trởmưu đồ
tấn công vào bán đảo Ýcủa Đếquốc Ottoman trong suốt một thời gian dài.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bài thảo luận Mehmed II, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh chế độ phân phối ruộng đất phong kiến của đế quốc.[4]
Thân phận người nông dân: theo bộ luật, người nông dân phải đóng đủ thứ
tô thuế nặng nề cho lãnh chúa, đồng thời còn phải đi phu tải lương cho chúa
phong kiến và làm việc bảy ngày không công trên đất của chúa phong kiến
hàng năm. Nếu người nông dân để ruộng đất bỏ hoang trong một năm thì
chúa phong kiến có quyền tịch thu nhà cửa ruộng đất của họ, đồng thời
đánh thuế nặng trên phần đất này để bù vào tổn thất của mình. Tất cả những
điều này có mục đích là buộc chặt người nông dân với ruộng đất.[4]
Phân chia ruộng đất: ruộng đất được chia làm 3 loại: của Giáo hội, của
quốc gia và của tư nhân. Trong đó ruộng đất của quốc gia là lớn nhất.
Ruộng của quốc gia lại được chia làm 3 loại nhỏ. Loại thứ nhất là ruộng
của hoàng gia và các đại thần, mỗi năm thu nhập vào khoảng 10 vạn akche
(đơn vị tiền tệ Ottoman, thời đó 1 akche mua được 7 kg bột mì). Số ruộng
hai loại kia được cấp phát cho các địa chủ bậc trung (thu nhập hằng năm từ
2 vạn - 10 vạn akche) và bậc nhỏ (thu nhập hằng năm 2000 - 1 vạn akche),
tính tổng cộng có chừng 1 vạn địa chủ loại này. Các lãnh chúa phong kiến
có nghĩa vụ phải nộp thuế và cống phẩm cho vua, trưng tập kỵ binh (trong
thời chiến) và phải vâng theo mệnh lệnh của vua. Số lãnh chúa này tạo nên
nền tảng thống trị của đế quốc.[4]
[ ] Chính sách tôn giáo
Giáo trưởng Gennadios Scholarios và Mehmed II.
Có một điều đáng chú ý là thái độ của Mehmed II đối với tôn giáo rất là khoan
dung và rộng rãi so với nhiều bậc đế vương cùng thời. Ông đã chấp nhận Chính
thống giáo Đông phương, cho phép cho các giáo trưởng Thiên Chúa giáo truyền
đạo ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông đối xử rất khoan hồng với giáo dân và giáo hội Thiên Chúa giáo tại
Constantinopolis và trên toàn đế quốc. Mehmed II cho phép cộng đồng Thiên
Chúa giáo được tự trị ở Constantinopolis, và ông bổ nhiệm một cựu giáo trưởng
Constantinopolis có quan điểm bất đồng với hoàng đế Constantinus XI làm tổng
giám mục của thành phố. Sau khi quân Ottoman chiếm Constantinopolis, tất nhiên
là nhiều thánh đường Thiên Chúa giáo bị phá bỏ hoặc đổi thành thánh đường Hồi
giáo (ví dụ đại thánh đường St. Sophia nổi tiếng ở Constantinopolis đã bị đổi
thành thánh đường Hồi giáo Hagia Sophia), nhưng phần lớn những thánh đường
Thiên Chúa giáo khác vẫn tồn tại. Dưới sự lãnh đạo của tổng giám mục, họ có
quyền tự trị về mặt tôn giáo, văn hóa và có một hệ thống pháp luật riêng (tất nhiên
là họ vẫn phải tuân theo một số luật chung của đế quốc Ottoman). Thậm chí họ
còn khỏi phải đi binh dịch và được phép mở trường học riêng để dạy bằng ngôn
ngữ dân tộc.[4] Tuy nhiên ông chỉ cho phép các tín đồ Chính thống giáo Đông
phương được sống ở Constantinopolis, trục xuất di dân đến từ Genova và Venezia
cũng như các tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo ra khỏi thành phố này.
Về sau, Mehmed cũng cho phép giáo hội Thiên Chúa giáo của người Armenia,
giáo hội Do Thái giáo của người Do Thái và giáo hội Hy Lạp cũng được hoạt động
tự do trong khuôn khổ pháp luật của đế quốc Ottoman. Tất cả các giáo hội này
được gọi là millet, (tạm dịch là tập đoàn hoặc dân tộc có tín ngưỡng đặc thù trong
đế quốc Ottoman) mỗi millet do một lãnh tụ đứng đầu, có trách nhiệm trưng thu
thuế cho hoàng đế Ottoman và đảm bảo các giáo dân biết giữ pháp luật và trung
thành với triều đình Osman. Các millet ngoài việc chịu chung nghĩa vụ binh dịch,
thuế má, tất cả phần còn lại đều được Mehmed cho phép tự trị. Những giáo dân
trong millet khi phạm tội cũng chỉ bị xét xử trong các tòa án riêng của millet và
chỉ chịu phạt theo luật riêng của millet, trừ những tội có dính đến trị an và hình sự
thì phải bị trừng trị theo luật chung của đế quốc. Chính miệng ông đã nói với lãnh
thụ người Serbia rằng:
“ Bên cạnh một nhà thờ Hồi giáo, đều phải xây dựng một nhà thờ Thiên
Chúa giáo, dân chúng của ông có thể cầu nguyện trong nhà thờ. ”
—Mehmed II, [4]
Mehmed cũng đã tuyển mộ đội tân binh đến từ Devshirme. Trong đội quân này có
nhiều giáo dân Thiên Chúa giáo trẻ tuổi. Đội quân này được chia làm 2 nhóm: các
lính tráng có đủ tư cách nhất sẽ được phục vụ nhà vua trong cung điện; những
người kém tài hơn nhưng có thể lực tốt thì sẽ được gia nhập toán Cấm vệ quân
janissary của vua.
[ ] Văn hóa - Giáo dục
Tranh vẽ Mehmed II, trong Tập ảnh Sarayi
Ngay từ thời niên thiếu, Mehmed II đã bộc lộ một sự yêu thích đặc biệt về văn học
và nghệ thuật. Sau này khi lên làm vua, ông mời nhiều danh họa Ý, người theo chủ
nghĩa nhân văn và nhà triết học Hy Lạp đến cung điện, nói đúng hơn là chung
quanh Mehmed thường tụ tập rất nhiều văn nhân học giả, cùng nhau bàn chuyện
quốc sự hay làm thơ, vẽ tranh. Mehmed II cũng đã sáng tác một tập thơ thể hiện
tình yêu thiên nhiên tha thiết và miêu tả những khung cảnh hoành tráng trên chiến
trường. Đặc biệt, Mehmed đã phá vỡ thông lệ “không sùng bái hình nộm” của đạo
Hồi, mà mời nhiều danh họa nổi tiếng ở Ý về vẽ chân dung cho ông.[4] Một trong
số họ chính là họa sĩ Gentile Bellini người Venezia, đã vẽ một bức chân dung nổi
tiếng của Mehmet II.[7] ông đã ra lệnh sưu tập nhiều bức danh họa nổi tiếng của đế
quốc Đông La Mã cũng như những bức họa nổi tiếng khác trên thế giới. Đáng chú
ý, trong số những bức họa được triều đình Ottoman cất giữ từ thời Mehmet II trở
đi, có nhiều bức họa đời nhà Minh của Trung Quốc đương thờ.[4]
Giáo dục cũng là một mặt được Mehmed II quan tâm. Ông đã đầu tư xây dựng
nhiều thư viện, trường học… tại kinh đô mới Constantinopolis. Chỉ riêng tại thánh
đường Hồi giáo The Conqueror, Mehmed đã cho dựng lên bốn trường cao đẳng
kinh văn xung quanh. Đồng thời ông cũng cho xây một trường học nội cung mới
tại địa điểm của cung vua cũ ở Constantinopolis, nhằm đào tạo những quan viên
được huấn luyện bài bản về mặt hành chính, bù đắp vào nhu cầu ngày càng tăng về
các quan chức hành chính do cương thổ đế quốc càng lúc càng mở rộng. Học sinh
chủ yếu là các tù binh 10-15 tuổi hoặc các thanh thiếu niên ở các giáo khu Thiên
Chúa giáo. Chương trình học kéo dài 10-12 năm, bao gồm các môn như ngữ văn,
văn học, nhạc, pháp luật, thần học, quân sự, toán, triết học, quản lý học và quản lý
hành chính, thuế vụ, tài chính… Những học sinh nào không qua được các kỳ kiểm
tra sẽ bị đuổi học ngay. Bản thân Mehmed cũng thường đến thăm hỏi tiến độ học
tập của các học sinh trong trường.[4]
Để nâng cao chất lượng giáo dục, Mehmed II không ngại tốn kém, cho vời nhiều
học giả nổi tiếng trong giới Hồi giáo cũng như tại châu Âu thời đó về giảng dạy tại
các ngôi trường của Ottoman. Có dạo, khi ông vời được một nhà thiên văn nổi
tiếng người Trung Á về thủ đô Constantinopolis, ngay lập tức tại ngoại ô
Constantinopolis liền tiến hành xây dựng một ngôi trường lớn về toán học và một
đài thiên văn bên cạnh.[4]
[ ] Qua đời
Giống như nhiều vị đế vương khác, trong thời kỳ cai trị của mình Mehmed II luôn
luôn phải đối phó với những cuộc đấu tranh quyền lực trong triều đình. Đặc biệt
nghiêm trọng, năm 1472 các đại thần phản loạn từng tổ chức âm mưu phế bỏ
Mehmed để lập Cem, một đứa con nhỏ của ông lên ngôi, nhưng may mắn thay âm
mưu bị phát hiện và những người dính líu đều bị trừng phạt. Vì vậy, từ một vị vua
cởi mở, ưa kết giao, Mehmed II về cuối đời trở nên hết sức đa nghi. Ông đã sắp
xếp rất nhiều biện pháp nhằm bảo vệ sự an toàn của bản thân. Ví dụ ông không
cho bất kỳ ai mang vũ khí khi vào cung, kể cả những cận vệ của ông cũng phải
vào tay không. Khi ăn ông không bao giờ ngồi chung bàn với người khác, và món
ăn nào ông cũng bắt thuộc hạ nếm thử, khi biết không có độc ông mới ăn. Ông
cũng xây dựng rất nhiều cụm bố phòng quanh cung điện. Để đề phòng bị giết hại
khi tắm, ông đã đặt nhiều thiết bị phòng vệ chung quanh nhà tắm, và các cửa vào
nhà tắm chỉ có thể từ trong mở ra, người ngoài không vào được. Cánh cửa cuối
cùng còn lắp đặt máy bắn tên tự động.[4]
Theo "Thập đại tùng thư", đề phòng kỹ như vậy Mehmed vẫn chết do bị ám sát.
Cụ thể, Mehmed II bị sát hại tại Hunkârçayiri gần Gebze, Constantinopolis ngày 3
tháng 5 năm 1481 lúc mới 52 tuổi,[8] được tin là do bị các thái y gốc Do Thái đầu
độc, còn kẻ chủ mưu là thái tử Bayezid,[8] do Bayezid quá nông nóng kế thừa
vương vị[4]. Tình cảnh chết của ông rất thê thảm, cả mũi và miệng đều trào máu.
Tương truyền trong thời gian này ông đang điều động binh mã đến miền Bắc Tiểu
Á để chuẩn bị một cuộc viễn chinh, nhưng cái chết bất ngờ của ông đã khiến nó
cùng với Mehmed vĩnh viễn nằm sâu dưới ba tấc đất.[4]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lich_su_71__6995.pdf