Ngày 11 tháng 9năm 1972, lần đầu tiên kểtừkhi Kissinger bắt đầu hội
đàm bí mật với Hà Nội vào tháng 8 năm 1969, Việt Nam Dân chủCộng
hòa đã gợi ý rằng họcó thểsẽchấp nhận một cuộc ngừng bắn tại Nam Việt
Nam mà không cần loại bỏchính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Một sựthỏa
hiệp bắt đầu có vẻkhai thông.
[2]
Ngày 12 tháng 10, Kissingervà Lê Đức Thọđi đến một bản nháp hiệp định
gồm 9 điểm. Nội dung đó chưa đầy đủnhưng nó đã tạo được một bước đột
phá lớn. Dựthảo đã tách các vấn đềthuần túy quân sựkhỏi các vấn đề
chính trị. Nó cho phép một cuộc ngừng bắn tại chỗ, sựrút quân đội Mỹvà
đồng minh nước ngoài vềnước, sựtrao trảtù binh Mỹtrong vòng 60 ngày,
và thiết lập một qui trình mơ hồmà qua đó người Việt Nam sau đó sẽtự
quyết định tương lai của mình. Theo nghĩa rộng, sựthỏa hiệp này cho chính
quyền Việt Nam Cộng hòacủa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tồntại như
một chính phủcó liên quan đến giải pháp hoà bình, cho lực lượng cộng sản
Việt Nam một vịthếchính thức tại miền Nam Việt Nam, đồng thời khẳng
định lập trường nguyên tắc của Hà Nội rằng Việt Nam là một quốc gia chỉ
đang tạm thời bịchia cắt. Bản dựthảo này đã đáp ứng được yêu cầu của
Hoa Kỳlà ra đi trong danh dựvà đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của phía
Việt Nam Dân chủCộng hòa
19 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bài thảo luận Hiệp định Paris 1973 Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiệp định Paris 1973
Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, đại diện đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cố vấn
đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ, Tiến sĩ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký
tắt.
(Người đứng giữa, phía sau là Thư ký đoàn VNDHCH Lưu Văn Lợi)
Ngày ký
Địa điểm
27 tháng 1 năm 1973
Paris, Pháp
Có hiệu lực 28 tháng 1 năm 1973
Hết hiệu lực Vô hiệu hoá ngày 30-4-1975
Bên tham dự
Hoa Kỳ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Việt Nam Cộng hoà
Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà
Miền Nam Việt Nam
Ngôn ngữ Anh, Việt
Hiệp định Paris 1973 tại Wikisource
Mục từ "Hiệp định Paris" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Hiệp
định Paris (định hướng).
Hiệp Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam
Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Lê
Đức Thọ và Henry Kissinger, hai nhân vật chủ yếu trong cuộc đàm phán, đã được
trao giải Nobel Hòa Bình năm 1973.
Mục lục
[ẩn]
1 Quá trình đàm phán
o 1.1 Giai đoạn 1968-1972
o 1.2 Giai đoạn 1972-1973
1.2.1 Các mốc thời gian
2 Nội dung chính của hiệp định và lập trường các bên
3 Vai trò và kết quả
4 Các nhân vật đại diện chính thức cho các bên ký kết
5 Các nhân vật chủ chốt tham gia đàm phán
6 Nguồn tham khảo
7 Chú thích
8 Liên kết ngoài
[ ] Quá trình đàm phán
Việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là việc phải xảy ra
khi chẳng ai dứt điểm được ai bằng quân sự. Sau sự kiện Tết Mậu Thân - 1968 các
bên đã ngồi vào thương lượng cho tương lai chiến tranh Việt Nam. Việc thương
lượng đã diễn ra rất phức tạp. Vì một mặt, các bên chưa thật sự thấy cần nhượng
bộ và mặt khác, Liên Xô và Trung Quốc muốn can thiệp vào đàm phán - đặc biệt
là Trung Quốc. Nước này không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tự đàm phán
mà muốn thông qua Trung Quốc giống như Hiệp định Genève năm 1954. Nhưng
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cự tuyệt dù bị áp lực bởi hai đồng minh.
Địa điểm tổ chức hội đàm được chọn là thành phố Paris, thủ đô nước Cộng hòa
Pháp. Thời gian đàm phán kéo dài từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973.
Các bên tham gia ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ; sau mở
ra thành hội nghị bốn bên, thêm Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên việc có thêm 2 đoàn chỉ là
hình thức, bởi nội dung hiệp định chủ yếu được quyết định trong các phiên họp kín,
vốn chỉ có 2 đoàn thực sự nắm quyền điều khiển cuộc chiến là Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Hoa Kỳ đàm phán với nhau.
[ ] Giai đoạn 1968-1972
Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường thì đàm phán thường bế tắc và điều
đó đúng với Hội nghị Paris suốt thời kỳ từ 1968 đến 1972. Các bên dùng hội nghị
như diễn đàn đấu tranh chính trị. Trong suốt quá trình hội nghị các cuộc họp chính
thức chỉ mở màn, tố cáo nhau, tranh luận vài điều mà không thể giải quyết được
rồi kết thúc mà không đi vào thực chất. Chỉ có các cuộc tiếp xúc bí mật của cố vấn
đặc biệt Lê Đức Thọ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Tiến sĩ Henry Kissinger,
cố vấn của Tổng Thống Hoa Kỳ - Richard Nixon, là đi vào thảo luận thực chất
nhưng không đi được đến thoả hiệp.
[ ] Giai đoạn 1972-1973
Loạt bài
Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959
Miền Bắc – Miền Nam
Thuyết Domino
Giai đoạn 1960–1965
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Chiến tranh đặc biệt
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc
Chiến dịch:
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền
Miền Nam
Chiến tranh cục bộ
Chiến dịch:
Các chiến dịch Tìm-Diệt
Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968
Diễn biến Quốc tế
Giai đoạn 1968–1972
Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hóa chiến tranh
Hội nghị Paris
Hiệp định Paris
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –
Hè 1972 –Linebacker –Linebacker II
Giai đoạn 1973–1975
Chiến dịch:
Xuân 1975
Phước Long
Tây Nguyên -Huế - Đà Nẵng
Phan Rang - Xuân Lộc
Hồ Chí Minh
Bài chi tiết: Hội nghị Paris,
mặt trận ngoại giao năm 1972
Đến giữa năm 1972, khi Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa có chủ trương
chuyển hướng sang chiến lược hòa
bình[1] và Hoa Kỳ đã mệt mỏi bởi
chiến tranh kéo dài và thực sự muốn
đi đến kết thúc, thì đàm phán mới đi
vào thực chất thoả hiệp.
Lập trường ban đầu của Hoa
Kỳ: quân đội Hoa Kỳ cùng các
đồng minh nước ngoài rút khỏi
Việt Nam phải đồng thời với việc rút quân Bắc Việt khỏi Nam Việt Nam.
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có
quyền tồn tại trong giải pháp hoà bình.
Lập trường ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: quân đội Hoa Kỳ
phải rút khỏi Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam có quyền ở lại chiến
trường miền Nam. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu không được tồn tại
trong giải pháp hoà bình.
Trong đó vấn đề quy chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại chiến trường miền
Nam Việt Nam là cốt lõi, chìa khoá của mọi mâu thuẫn của các bên. Cuối năm
1972, đã quá mệt mỏi vì chiến tranh kéo dài và bị dư luận trong nước và quốc tế
đòi hỏi giải quyết vấn đề hoà bình ở Việt Nam trong thời gian nhiệm kỳ tổng
thống của mình như đã hứa, chính phủ Hoa Kỳ của Tổng thống Richard Nixon đã
nhượng bộ trong vấn đề cốt lõi này. Về phía mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông
Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Chất độc da cam
Thuyền nhân
tiêu bản
cũng nhượng bộ về vấn đề tiếp tục tồn tại của chính quyền của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Dự thảo khung của thoả hiệp đạt được là: "Quân đội Mỹ và các đồng minh nước
ngoài phải rút khỏi Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam được ở lại miền Nam
Việt Nam, chính quyền của Tổng thống Thiệu được quyền tồn tại trong một giải
pháp hoà bình, trao trả tù binh không điều kiện trong vòng 60 ngày."
[ ] Các mốc thời gian
Ngày 11 tháng 9 năm 1972, lần đầu tiên kể từ khi Kissinger bắt đầu hội
đàm bí mật với Hà Nội vào tháng 8 năm 1969, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã gợi ý rằng họ có thể sẽ chấp nhận một cuộc ngừng bắn tại Nam Việt
Nam mà không cần loại bỏ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Một sự thỏa
hiệp bắt đầu có vẻ khai thông.[2]
Ngày 12 tháng 10, Kissinger và Lê Đức Thọ đi đến một bản nháp hiệp định
gồm 9 điểm. Nội dung đó chưa đầy đủ nhưng nó đã tạo được một bước đột
phá lớn. Dự thảo đã tách các vấn đề thuần túy quân sự khỏi các vấn đề
chính trị. Nó cho phép một cuộc ngừng bắn tại chỗ, sự rút quân đội Mỹ và
đồng minh nước ngoài về nước, sự trao trả tù binh Mỹ trong vòng 60 ngày,
và thiết lập một qui trình mơ hồ mà qua đó người Việt Nam sau đó sẽ tự
quyết định tương lai của mình. Theo nghĩa rộng, sự thỏa hiệp này cho chính
quyền Việt Nam Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tồn tại như
một chính phủ có liên quan đến giải pháp hoà bình, cho lực lượng cộng sản
Việt Nam một vị thế chính thức tại miền Nam Việt Nam, đồng thời khẳng
định lập trường nguyên tắc của Hà Nội rằng Việt Nam là một quốc gia chỉ
đang tạm thời bị chia cắt. Bản dự thảo này đã đáp ứng được yêu cầu của
Hoa Kỳ là ra đi trong danh dự và đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của phía
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[2]
Ngày 13 đến 16 tháng 10, Tổng thống Richard Nixon sau khi nghiên cứu đã
chấp thuận nội dung dự thảo, rồi điều Kissinger đến Sài Gòn để thuyết phục
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.[2]
Ngày 18 đến 23 tháng 10, Kissinger đến Sài Gòn gặp Nguyễn Văn Thiệu.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không tỏ thái độ mà chỉ yêu cầu làm rõ và
so sánh giữa hai bản tiếng Việt và tiếng Anh. Kissinger tưởng rằng Thiệu sẽ
chấp thuận, ông thông báo với Nixon như vậy. Theo tinh thần đó, ngày 21
tháng 10, Nixon gửi thông điệp cho Hà Nội khẳng định rằng dù một số vấn
đề cần làm rõ, "nội dung hiệp định đã có thể được coi là hoàn chỉnh" và
việc ký kết ngày 31 tháng 10 có thể khả thi. Kissinger sẽ tới Hà Nội ngày
24 để tổng kết phiên đàm phán cuối cùng dài 2 ngày, và một tuần sau sẽ ký
kết chính thức tại Paris.[2]
Ngày 23 tháng 10, tại cuộc gặp thứ năm và là cuộc gặp cuối cùng tại Sài
Gòn, cuối cùng Tổng thống Thiệu đã tuyên bố chính thức các đánh giá của
mình: ông phản đối kịch liệt bản dự thảo 9 điểm coi đây là hiệp định hy
sinh quyền lợi của Việt Nam Cộng hoà, đòi các lực lượng VNDCCH phải
rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam, thiết lập vùng phi quân sự làm
biên giới với miền Bắc. Ông còn coi giải pháp hội đồng hiệp thương là một
hình thức chính phủ liên bang trá hình. Tổng thống Thiệu lên đài phát thanh
tuyên bố bác bỏ nguyên tắc một nước Việt Nam thống nhất: "Bắc Việt Nam
là Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam là Nam Việt Nam, mọi người phải chấp
nhận thực tế là tồn tại hai nước Việt Nam, không bên nào được xâm lược
bên nào". Nixon gửi thông điệp cho Hà Nội nói rằng do các khó khăn ở Sài
Gòn, việc ký kết vào ngày 31 là không thể được và đề nghị một vòng đàm
phán mới. Chuyến bay của Kissinger tới Hà Nội bị hủy bỏ.[2]
Ngày 25 tháng 10, báo động bởi việc Nixon rút lui khỏi ký kết và bởi phản
đối của Thiệu, Hà Nội công bố tóm tắt nội dung bản dự thảo và cảnh báo về
các hậu quả nghiêm trọng nếu Mỹ không ký kết vào ngày 31 tháng 10. Mục
đích là để ép Mỹ giữ vững giao ước ban đầu bất kể đến Thiệu. Khi tin này
đến Washington D.C. vào sáng 26 tháng 10, Kissinger lên truyền hình
tuyên bố "hòa bình trong tầm tay", với mục đích đảm bảo với Hà Nội và
cảnh báo Sài Gòn về mong muốn nghiêm túc của Washington về một sự
dàn xếp. Chỉ 6 tiếng sau, VNDCCH gửi điện đồng ý với một vòng đàm
phán mới tại Paris.[2]
Ngày 2 tháng 11, Nixon tuyên bố trên truyền hình rằng bản dự thảo còn có
những phần "mập mờ" "cần làm rõ trước khi ký kết bản hiệp định cuối
cùng". Ông quyết định sẽ thỏa mãn mọi ngờ vực của Thiệu về vấn đề chủ
quyền, và chỉ thị Kissinger tìm kiếm một nhượng bộ về khía cạnh khu phi
quân sự, và nếu đạt được điều đó thì họ sẽ ép Thiệu ký. Nếu Thiệu vẫn tiếp
tục từ chối thì Mỹ sẽ ký kết hiệp ước hòa bình riêng với Hà Nội.[2]
Ngày 20-25 tháng 11, Kissinger cuối cùng cũng quay lại Paris. Hai bên đi
đến được đồng thuận về ngôn ngữ khẳng định rằng khu vực phi quân sự là
đường phân chia chính trị khu vực.[2]
Ngày 29 tháng 11, Nguyễn Phú Đức, đặc phái viên của Thiệu, bay đến
Washington D.C. báo với Nixon rằng nhượng bộ của Hà Nội là không đủ.
Nixon loại bỏ hầu hết các yêu cầu của Đức trong đó có cả sự rút Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam ra khỏi miền Nam. Nhưng Nixon vẫn chưa yên tâm về
vấn đề khu phi quân sự và yêu cầu Kissinger đưa vấn đề này ra bàn lại tại
Paris.[2]
Ngày 3 tháng 12, dự đoán về một thất bại trong đàm phán và Mỹ ném bom
trở lại, Hà Nội bắt đầu sơ tán trẻ em ở thủ đô về nông thôn.[2]
Ngày 4-13 tháng 12, đàm phán tiếp tục tại Paris suôn sẻ cho đến khi phía
Mỹ một lần nữa lật lại vấn đề cốt lõi: quy chế của lực lượng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, và nêu vấn đề khu phi quân sự. Phía VNDCCH phản ứng
bùng nổ bằng cách thu hồi các nhượng bộ từ các buổi họp trước đó và đưa
ra đòi hỏi mới, trong đó có việc lật lại vấn đề cơ bản về trao trả tù binh Mỹ.
Tháng 10, phía VNDCCH đã đồng ý trao trả tù binh Mỹ vô điều kiện trong
vòng 60 ngày. Nay họ muốn gắn việc trao trả tù binh với việc thả hàng
ngàn tù chính trị tại Nam Việt Nam - một vấn đề mà họ đã từng đồng ý
dành nó cho các thương thảo cụ thể sau này giữa các bên Việt Nam. Nixon
triệu hồi Kissinger về Mỹ và ngừng đàm phán.[2]
Ngày 14 tháng 12, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội: trong 72 giờ
đồng hồ để quay lại ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị, nếu không sẽ ném
bom lại Bắc Việt Nam.[2]
Ngày 18 tháng 12, Hoa Kỳ bắt đầu cho máy bay B–52 ném bom rải thảm
Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu khác. Đợt ném diễn ra trong 12 ngày
(18 tháng 12 đến 30 tháng 12), đó là Chiến dịch Linebacker II. Không
khuất phục được Hà Nội, bị thiệt hại nặng nề cho lực lượng không quân,
hơn ba chục chiếc B52 bị Hà Nội bắn hạ ,(Hà Nội cho tới nay vẫn tự hào
rằng chỉ có Việt Nam mới bắn rơi B52 Mỹ) và nhất là bị dư luận quốc tế và
trong nước phản đối mạnh mẽ, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải chấm dứt ném
bom quay lại đàm phán và đồng ý ký kết Hiệp định Paris theo phương án đã
ký tắt hồi tháng 10 với một vài đổi nhỏ có tính kỹ thuật. Chính phủ Việt
Nam Cộng hòa không tán thành hiệp định nhưng vì áp lực nếu không chấp
nhận thì Hoa Kỳ sẽ đơn phương ký với Hà Nội và từ bỏ trách nhiệm với
Việt Nam Cộng hòa nên phải chấp nhận ký. Theo hồ sơ mới giải mật gần
đây của phía Mỹ thì Ních-xơn có nói: nếu Thiệu không ký hiệp định thì sẽ
lấy đầu ông ta (tức Thiệu)
Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 như một thắng
lợi quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 29 tháng 3 năm
1973, quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp
quân sự của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ còn Quân lực
Việt Nam Cộng hòa đơn độc chống lại quân Quân đội nhân dân Việt Nam
và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng mạnh.
[ ] Nội dung chính của hiệp định và lập trường các bên
Nội dung hiệp định được chia thành chín "chương", nói về các chủ đề về cơ bản
giống như trong bản dự thảo 9 điểm mà Hoa Kỳ và Việt nam Dân chủ Cộng hoà
đã thống nhất với nhau vào tháng 10 năm 1972. Đó là [3]:
Phía Hoa Kỳ ký kết Hiệp Định Paris
1. Hoa Kỳ tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam
như được công nhận bởi hiệp định Geneva.
Đây là lập trường có tính nguyên tắc mà phía Bắc Việt Nam kiên quyết giữ
vững. Phía Việt Nam Cộng Hòa coi đây là điều khoản nguy hại cho mình
nên đã ra sức bác bỏ. Hoa Kỳ thuyết phục tổng thống Thiệu rằng điều
khoản này chỉ có tính nguyên tắc trên lý thuyết, thực tế không trực tiếp gây
nguy hại cho an ninh của Việt Nam Cộng hoà; rằng ngoài ra trong hiệp
định còn có điều khoản quy định Nhân dân Miền Nam Việt Nam có quyền
tự định đoạt chế độ chính trị của mình thông qua bầu cử có giám sát quốc tế,
là điều khoản vô hiệu hoá được mối đe doạ của điều khoản thứ nhất này.
Năm 1973, sau khi ký chính thức hiệp định trong một chuyến đi hội đàm
đến Hà Nội ông Kissinger có đến thăm Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại Hà
Nội, Khi nghe cán bộ bảo tàng dịch nghĩa các câu thơ chữ Hán của bài thơ
"Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt trên tường nhà bảo tàng, ông
Kissinger nhận xét: "Điều 1 khoản 1 của Hiệp định Paris!"[4]
2. Ngừng bắn trên toàn Việt Nam sẽ bắt đầu từ 27 tháng 1 năm 1973: với tất
cả các đơn vị quân sự ở nguyên vị trí. Mọi tranh chấp về quyền kiểm soát
lãnh thổ sẽ được giải quyết bởi uỷ ban quân sự liên hợp giữa hai lực lượng
của Việt Nam Cộng hòa và Việt Cộng. Trong vòng 60 ngày, sẽ có cuộc rút
lui hoàn toàn của quân đội Mỹ và đồng minh cùng các nhân viên quân sự
Mỹ ra khỏi Việt Nam Cộng hòa. Các bên không được tăng cường binh lính,
nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược hoặc vật liệu chiến tranh vào Nam
Việt Nam, trong trường hợp để thay thế thì phải theo nguyên tắc một-đổi-
một. Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục can thiệp quân sự vào "các vấn đề nội bộ"
của Nam Việt Nam.
Đây là vấn đề quan trọng số một là thực chất của hiệp định nó quy định
quân đội Hoa Kỳ và đồng minh phải rút hết khỏi Việt Nam chấm dứt mọi
can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, trong khi đó quân đội Bắc
Việt Nam tiếp tục được ở lại trên chiến trường miền Nam đây là nhượng bộ
lớn nhất mà qua 4 năm đấu tranh trên chiến trường và bàn hội nghị cuối
cùng Hoa Kỳ đã thoả hiệp. Đây là điều khoản mà Việt Nam Cộng hoà
cương quyết bác bỏ vì thấy trước là mối hiểm hoạ nhất định nổ ra sau khi
Hoa Kỳ rút hết quân. Trong chương này có điều khoản về thay đổi quân số
và binh bị theo nguyên tắc một-đổi-một: đây là nhượng bộ của phía Bắc
Việt Nam nhưng thực ra điều khoản này trên thực tế sẽ nhanh chóng bị vô
hiệu hoá vì không có một lực lượng nào có thể kiểm chứng số lượng, trang
bị của quân Bắc Việt Nam trên chiến trường và trên đường tiếp tế.
Bộ Trưởng Nguyễn Thị Bình ký hiệp định
1. Tất cả tù binh chiến tranh của các bên sẽ được trao trả không điều kiện
trong vòng 60 ngày. Các tù nhân chính trị sẽ được trả tự do sau đó theo
thoả thuận chi tiết của các phía Việt Nam.
Điều khoản trao trả tù binh không điều kiện trong vòng 60 ngày có tầm
quan trọng rất lớn và cực kỳ nhạy cảm đối với chính phủ của Tổng thống
Nixon. Uy tín chính quyền Nixon trong con mắt người dân Mỹ phụ thuộc
lớn vào việc có nhanh chóng đưa được các tù binh Mỹ về nước như đã hứa
khi bầu cử tổng thống hay không và điều rất quan trọng nữa là điều này tạo
ra được ấn tượng tâm lý "ra đi trong danh dự". Việc giải phóng tù binh
không điều kiện, còn tù nhân dân sự sẽ được giải quyết sau phản ánh
nguyên tắc của phía Hoa Kỳ là tách các vấn đề thuần tuý quân sự ra khỏi
các vấn đề rất phức tạp về chính trị. Chính vì vấn đề tù binh Mỹ quá quan
trọng với chính quyền của Tổng thống Nixon nên đây cũng là một lý do
giải thích cho phản ứng rất dữ dội của Nixon bằng chiến dịch Linebacker II
khi phía Bắc Việt Nam đặt lại vấn đề phóng thích tù binh phải gắn liền với
vấn đề tù chính trị.
2. Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát.
Các bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai vùng.
Nhân dân Nam Việt Nam sẽ quyết định tương lai chính trị của mình qua
"tổng tuyển cử tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế".
Điều khoản này phản ánh thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng
kiểm soát. Phía Mỹ yêu cầu phải có điều khoản bảo đảm cho quyền của
nhân dân miền Nam quyết định tương lai chính trị của mình thông qua bầu
cử tự do dân chủ dưới sự giám sát quốc tế là để ngăn ngừa về mặt pháp lý
sự thôn tính bằng vũ lực của Bắc Việt Nam đối với Nam Việt Nam. Đối với
yêu cầu này Bắc Việt Nam không có phản đối gì đặc biệt.
3. Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện
pháp hòa bình.
Chương này khẳng định ranh giới và khu phi quân sự tại vĩ tuyến 17 chỉ là
tạm thời theo như quy định tại Hiệp định Genève. Hai bên Việt Nam sau
này tiến hành đàm phán để đi đến thống nhất Việt Nam... cụ thể vấn đề
thống nhất chỉ mang tính nguyên tắc không có cơ chế thi hành: các biện
pháp đó là gì, tiến hành như thế nào thì hiệp định chưa xem xét đến.
4. Để giám sát việc thực hiện hiệp định, một uỷ ban kiểm soát và giám sát
quốc tế và phái đoàn quân sự liên hợp bốn bên (gồm Bắc Việt, Hoa Kỳ,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà)
sẽ được thành lập.
Cơ chế giám sát thi hành này trong thực tế không có hiệu lực gì đáng kể.
5. Lào và Campuchia giữ vị trí trung lập và tự chủ, không cho nước ngoài
được phép giữ các căn cứ quân sự trong lãnh thổ của hai nước này.
Đây là trói buộc của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đối với các căn cứ và
tuyến vận chuyển của Bắc Việt Nam và cộng sản miền Nam trên đường
mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào và Campuchia. Đây là một nhượng bộ của
phía cộng sản nhưng trên thực tế thì phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa
không có cách gì để bắt buộc đối phương thi hành điều khoản này một phần
vì ngay tại các nước này cũng đang nội chiến không có một chính quyền
trung ương mạnh.
6. Hoa Kỳ có nghĩa vụ sẽ giúp đỡ việc tái thiết sau chiến tranh, đặc biệt là ở
Bắc Việt Nam và trên toàn Đông Dương, để hàn gắn các thiệt hại do chiến
tranh.
Điều khoản tái thiết sau chiến tranh sau này không được thi hành. Sau này
trong thập niên 1990 khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước thì một
yêu cầu của phía Hoa Kỳ là Việt Nam phải chấm dứt đòi hỏi Hoa Kỳ nghĩa
vụ tái thiết sau chiến tranh mà như hiệp định đã quy định.
7. Tất cả các bên đồng ý thi hành hiệp định. Và hiệp định được sự bảo trợ của
quốc tế thông qua việc các quốc gia ký nghị định thư quốc tế về chấm dứt
chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt nam.
Điều khoản cuối của hiệp định và cũng không có điều khoản cưỡng chế:
hiệp định không đưa ra được biện pháp và lực lượng cưỡng chế nếu một
bên vi phạm hiệp định.
[ ] Vai trò và kết quả
Hiệp định Paris là hiệp định được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ soạn
thảo để đảm bảo cho việc Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh. Đối với Hoa Kỳ đây là cách
họ ra khỏi cuộc chiến mệt mỏi này một cách chính đáng. Đối với Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì hiệp định này là thắng lợi thứ
nhất - "Đánh cho Mũ cút", trong hai bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Bản hiệp
định đảm bảo việc quân Mỹ, đối thủ nguy hiểm nhất của họ không còn hiện diện
tại Việt Nam, còn Việt Nam Cộng hòa được xác định sẽ không thể tồn tại lâu sau
khi Hoa Kỳ rút đi.
Đối với Việt Nam Cộng hòa thì hiệp định này là một tai ương lớn đối với họ và
đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa trước một nguy hiểm trong một tương lai
gần. Để trấn an Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Nixon đã hứa riêng bằng lời với
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là trong trường hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
phát động chiến tranh tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa thì Hoa Kỳ sẽ phản ứng bằng
cách thích hợp để bảo đảm an ninh cho Việt Nam Cộng hòa. Tất nhiên lời hứa này
sẽ không có giá trị thực tế vì sau đó Quốc hội Hoa Kỳ đã ra nghị quyết không cho
phép đưa lực lượng vũ trang trở lại Đông Dương mà không được phép của Quốc
hội và quy định khuôn khổ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Với các áp đặt như
vậy thì dù không có sự kiện Watergate, dù Tổng thống Nixon có tại vị thì cũng
không thể giữ lời hứa một cách hữu hiệu được. Đối với người Mỹ họ thực sự
muốn đóng lại cuộc chiến, quên nó đi và mở sang một trang sử mới.
Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris. Nguồn: Sách Chính phủ Việt nam 1945-
1998 NXB Chính trị Quốc gia 7.1999
Chính vì vậy trong hiệp định có những điều khoản có vẻ là nhượng bộ của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng chẳng có ai có thể kiểm chứng và cưỡng chế được;
ví dụ điều khoản quy định quân đội Quân đội Nhân dân Việt Nam được quyền
thay quân và trang bị vũ khí theo nguyên tắc một-đổi-một. Số quân của Quân đội
Nhân dân Việt Nam trên chiến trường lúc đó, số quân của họ trên đường mòn Hồ
Chí Minh, số vũ khí họ mang vào và mang ra là những dữ liệu không thể kiểm
chứng được. Còn vũ khí Mỹ vào Việt Nam qua các cảng và cầu hàng không thì dễ
dàng được quản lý. Tương tự, điều khoản về ngăn cấm các bên lập căn cứ quân sự
trên đất Lào và Campuchia trung lập là nhượng bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nhưng phía đối phương không thể có biện pháp áp chế hữu hiệu gì. Điều
khoản uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế cũng chỉ là hình thức vì quyền lực của
uỷ ban này không có đủ để can thiệp gì vào các tiến trình sự việc. Các điều khoản
về quy chế chính trị như thành lập chính phủ hoà hợp dân tộc tiến tới thống nhất
cũng không có cơ chế thi hành mà chỉ là ý tưởng đẹp...
Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành nghiêm chỉnh ở những điều khoản rút
quân Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực
sự muốn rút khỏi cuộc chiến và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tạo điều
kiện cho việc đó.
Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm
chính quyền Việt Nam Cộng hòa, còn Việt Nam Cộng hòa cố gắng xoay trở chống
đỡ chẳng kể gì đến hiệp định. Vai trò của Hiệp định Paris, trên thực tế, đến đây là
đã hết.
[ ] Các nhân vật đại diện chính thức cho các bên ký kết
William P. Rogers Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Trần Văn Lắm, Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
[ ] Các nhân vật chủ chốt tham gia đàm phán
Lê Đức Thọ: Cố vấn Đặc biệt, Lãnh đạo đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Xuân Thuỷ: Bộ trưởng, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa
Henry Kissinger: Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ
Henry Cabot Lodge, Jr.: Trưởng đoàn đàm phán Hoa Kỳ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ls_phap_18__3969.pdf