Bài thảo luận Di chỉ khảo cổ Mycenae và Tiryns

Phần lớn tôn giáocủa Mycenae tồn tại tới thời Hy Lạp cổqua các vịthần Hy Lạp

(Greek deity), nhưng người ta không biết bao nhiêu trong tín ngưỡng tôn giáo Hy

Lạp là của Mycenae, còn bao nhiêu là sản phẩm của thời tăm tối của Hy Lạpvà

sau đó.

Dẫu sao thì cũng có một vài suy đoán có lý. Tôn giáo của Mycenae hầu như chắc

chắn là đa thần, và họsẵn sàng thêm các vịthần từnước ngoài vào sốcác thần linh

của họmột cách dễdãi đến đáng ngạc nhiên. Mycenae chắc hẳn đã đi vào văn hóa

Hy Lạp bằng các vịthần (deity) dẫn đầu bởi một sốthiên thần (sky-deity) cai trị

mà theo các nhà ngôn ngữhọc có thểđã được gọi là Dyeus trong hệngôn ngữ Ấn

-Âuban đầu. Trong tiếng Hy Lạp, vịthần này trởthành Zeus. Trong tiếng Hindus,

sky-deity trở thành "dyaus pitar" ("pitar" nghĩa là "cha"). Trong tiếng Latin ông trở

thành “deus pater” hay Jupiter, chúng ta vẫn gặp từnày trong những từnguyên

(etymology) của các từ deity(vịthần) và divine(thần thánh).

Tại một vài thời điểm trong lịch sửvăn hóa của mình, người Mycenae đã thu nhận

các nữthần của người Minoanvàkết hợp các nữthần này với chúa trời của mình.

Các học giảtin rằng các vịthần Hy Lạp không phản ánh tôn giáo củaMycenae

ngoại trừcác nữthần và thần Zeus. Tuy vậy các vịnữthần này lại xuất xứtừ

Minoan. Nhìn chung, tôn giáo của Hy Lạp sau này phân biệt hai loại thần thánh:

Olympian(gồm cảZeus) hay các thiên thần (hiện nay được biết dưới một vài dạng

khác), và các vịthần sớm hơn từtrái đất, hay âm thần (chthonic deity) -hầu hết

đều là nữ. Người Hy Lạp tinrằng các âm thần này cũ hơn các Olympian

pdf23 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài thảo luận Di chỉ khảo cổ Mycenae và Tiryns, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười dân của Mycenae tôn chú ngoại của Eurystheus, Atreus, một Pelopid, lên làm vua. [ ] Triều đại Atreid Người Mycenae đã nhận sự chỉ bảo từ một lời tiên tri rằng họ nên chọn vị vua mới trong số những Pelopid. Hai ứng viên là Atreus và người anh trai, Thyestes. Người thứ hai được chọn đầu tiên, và lúc này xuất hiện sự can thiệp của các thế lực siêu nhiên. Mặt trời trở nên đổi hướng di chuyển và lặn ở phía đông. Do mặt trời đổi hướng, người ta lập luận rằng việc bầu cho Thyestes nên được đảo lại, kết quả là Atreus được chọn làm vua. Hành động đầu tiên của ông là truy bắt Thyestes và cả gia đình ông ta, nhưng Thyestes đã trốn thoát được khỏi Mycenae. Sự trở về của Agamemnon. Theo truyền thuyết, Atreus có hai con trai, Agamemnon và Menelaus, hai Atreid. Aegisthus, con trai của Thyestes, giết Atreus và giành lại ngôi báu cho Thyestes. Với sự giúp đỡ của vua Tyndareus xứ Sparta, những người Atreid lại khiến Thyestes phải đi lưu vong một lần nữa. Tyndareus có hai người con gái bạc mệnh, Helen và Clytemnestra, lần lượt kết hôn với Menelaus và Agamemnon. Agamemnon kế vị ở Mycenae còn Menelaus làm nhiếp chính tại Sparta. Agamemnon bị giết. Helen bỏ trốn với người tình Paris của Troy. Agamemnon tiến hành một cuộc chiến tranh 10 năm chống lại Troy để giành lại cô ta cho em trai. Vì thiếu gió, đoàn chiến thuyền không thể đi tới Troy. Để làm hài lòng các vị thần nhằm khiến họ tạo ra gió, Agamemnon đã hiến tế con gái Iphigenia của mình. Nữ thần đi săn Artemis đã tráo cô ta vào giờ phút cuối cùng bằng một con nai trên bàn tế, và đưa Iphigenia tới Tauris (Xem Iphigenia ở Tauris của Euripides). Với việc các vị thần đã cảm thấy hài lòng với sự hiến tế, gió bắt đầu thổi và đoàn chiến thuyền khởi hành. Truyền thuyết kể rằng cuộc chiến gian khổ và kéo dài với Troy, dù trên danh nghĩa là một chiến thắng của Hy Lạp, đã đem lại sự hỗn loạn, cướp bóc và tàn phá. Sau chiến tranh, Agamemnon trở về trong sự chào đón long trọng với thảm đỏ và sau đó bị sát hại trong bồn tắm bởi vợ mình là Clytemnestra, người hận ông ta cay đắng vì đã hiến tế con gái Iphigenia của họ. Tội ác của Clytemnestra được tiếp tay bởi Aegistheus, người trị vì sau đó. Tuy nhiên Orestes, con trai của Agamemnon, đã được mang đi trốn ở Phocis. Orestes trở lại khi là một người lớn để giết Clytemnestra và Aegistheus, rồi bỏ trốn tới Sparta để trốn tránh sự xét xử và án giết mẹ, và trở nên điên loạn trong một khoảng thời gian. Trong thời gian đó, ngai vàng ở Mycenae thuộc về Aletes, con trai Aegistheus, nhưng không được lâu. Hồi phục trở lại, Orestes trở lại Mycenae để giết ông ta và đoạt lại ngai vàng. Orestes sau đó xây dựng một lãnh thổ lớn hơn ở Peloponnesus, nhưng lại bất ngờ bị chết ở Arcadia do bị rắn cắn. Con trai Tisamenus của ông, vị vua cuối cùng của triều đại Atreid, bị giết bởi các Heracleidae khi đang trở về Peloponnesus. Họ đòi quyền lợi của các Perseid thừa kế các vương quốc của Peloponnesus và mất nhiều thứ để giành quyền thống trị đối với chúng. [ ] Atreids ở Tiểu Á Đế chế Hittite, 1300 TCN. Trên thực tế, có một hiện tượng nhật thực toàn phần xảy ra ở Aegean vào ngày 5 tháng 3 năm 1223 trước công nguyên, mà Atreus có thể đã xuyên tạc trở thành mặt trời lặn hướng đông. Tuy vậy nó vẫn không giải quyết hết những điều còn chưa biết. Một thời gian muộn được ngụ ý cho cuộc chiến thành Troy, mà rốt cuộc lại đi ngược lại với Troy VIIa. Người Perseid lúc đó sẽ nắm quyền vào khoảng 1380 TCN, thời gian mà một bệ tượng tại Kom el-Heitan ở Ai Cập ghi lại cuộc hành trình của một sứ thần Ai Cập tới Aegean vào thời của Amenophis III. M-w-k-i-n-u ("Mukanuh"?) là một trong các thành phố được ghé thăm, một tài liệu ban đầu hiếm có về tên của Mycenae. Nó là một trong các thành phố của tj-n3-jj ("Tinay"?), Danaans của Homer, được đặt tên trong thần thoại theo Danaë, ám chỉ rằng có thể người Perseids đang nắm quyền thống trị ở một dạng nào đó. Cũng trong thế kỷ 14 trước công nguyên người Ahhiya bắt đầu gây rắc rối tới nhiều vị vua của đế chế Hittite. Ahhiyawa hay Ahhiya, xuất hiện vài chục lần trên các thẻ khắc của Hittite trong suốt thế kỷ, chắc hẳn là Achaiwia, tiếng Hy Lạp Mycenaean phục dựng của Achaea. Người Hittites không sử dụng Danaja như người Ai Cập, dù sự nhắc tới Ahhiya đầu tiên trong "bản cáo trạng của Madduwatta" có trước cái tương tự giữa Amenhotep III và một trong những người kế vị của Madduwatta tại Arzawa, Tarhunta-Radu. Tuy vậy các nguồn bên ngoài vào thời đại LHIIIA:1 lại phù hợp về sự bỏ sót của họ một vị vua vĩ đại hay các cấu trúc thống nhất khác phía sau Tinay/Ahhiya. Ví dụ, trong "bản cáo trạng của Madduwatta", Attarissiya, người cai trị Ahhiya, đã tấn công Madduwatta và đẩy ông khỏi vùng đất của mình. Ông đã được hỗ trợ nơi ẩn náu và quân sự từ vị vua vĩ đại Tudhaliya của Hittite. Sau cái chết của vị vua và dưới sự cai trị của người con trai ông, Arnuwanda, Madduwatta liên minh với Attarissiya và họ, cùng với những vị vua khác, tấn công Alasiya, tức là Síp. Đây là sự xuất hiện duy nhất của một người có tên Attarissiya. Các cố gắng để liên kết cái tên này với Atreus không nhận được sự đồng tình rộng rãi, và cũng chẳng có một chứng cứ nào của một Pelopid hùng mạnh tên là Atreus vào lúc đó. Trong suốt thời kỳ LHIIIA:2, Ahhiya, bấy giờ gọi là Ahhiyawa, mở rộng tầm ảnh hưởng tới Miletus, nằm trên bờ biển của Anatolia, và tranh giành với người Hittites tầm ảnh hưởng và quyền kiểm soát phần phía Tây Anatolia. Ví dụ như Arzawa của Uhha-Ziti và qua ông ta vùng đất sông Seha của Manapa-Tarhunta. Trong khi giúp xác minh sự tồn tại của người Hy Lạp Mycenaean như một thế lực lịch sử, các tài liệu này cũng nêu ra nhiều câu hỏi mới như số nó đã giải quyết được. Tương tự, một vị vua của Hittite viết một thứ gọi là bức thư Tawagalawa tới vị vua vĩ đại của Ahhiyawa, liên quan tới sự phá phách của người phiêu lưu của Luwiyan là Piyama-Radu. Tên của vị vua chưa được xác định, có thể là Muwatalli II hay người anh của ông ta là Hattusili III, tức là bức thư được viết vào khoảng thời kỳ LHIIIB theo thang của Mycenaean. Nhưng cả Atreus hay Agamemnon theo truyền thuyết đều không có một người anh em nào tên là Etewoclewes (Eteocles). Cái tên này có vẻ liên quan tới Thebes, mà trong suốt thời kỳ LHIIIA trước đó Amenhotep III đã coi như bằng với Mycenaea. Trong một sự kiện khác, Muwatalli II (trị vì 1296 - 1272 TCN) ký một hiệp ước với Alaksandu (có thể là Alexander), vua của Wilusa (Ilium); và một tài liệu khác nói Wilusa bị nguyền rủa bởi Appaliuna (Apollo). Nhưng Alaksandu trong hiệp ước đó là quá sớm để trở thành vua của một thành phố bị tấn công bởi Agamemnon, và hơn nữa, Priam mới là vua của thành phố đó. Chưa có cách nào để thống nhất một cách thỏa đáng giữa những phiến khắc của người Hittite và các truyền thuyết Hy Lạp sau đó. [ ] Khai quật Quang cảnh của thành lũy. Cuộc khai quật đầu tiên tại Mycenae được tiến hành bởi nhà khảo cổ Hy Lạp Kyriakos Pittakis vào năm 1841. Ông ta đã tìm ra và khôi phục lại cổng sư tử . Năm 1874 Heinrich Schliemann tới địa điểm này và tiến hành một cuộc khai quật toàn diện. Schliemann tin vào căn cứ lịch sử của các tác phẩm của Homer-rơ và giải thích các vị trí theo đó. Ông ta tìm ra các hầm mộ cổ với các hài cốt hoàng gia cùng các đồ táng ngoạn mục. Khi phát hiện ra một đầu lâu mang một mặt nạ người chết vàng ở một trong các ngôi mộ, ông tuyên bố: "Tôi đã nhìn vào khuôn mặt của Agamemnon". Một phiến khắc đất sét với chữ viết Linear B từ Mycenae. Từ thời của Schliemann đã có thêm các cuộc khai quật khoa học ở Mycenae, phần lớn bởi các nhà khảo cổ Hy Lạp nhưng cũng có sự tham gia của Trường Anh Quốc tại Athens. Vệ thành được khai quật năm 1902, và các ngọn đồi xung quanh được khảo sát một cách cẩn thận trong các cuộc khai quật sau đó. [ ] Du lịch Là một trong các địa điểm khởi đầu của văn minh châu Âu, Mycenae là một điểm đến nổi tiếng cách Athens dưới hai tiếng đi xe. Địa điểm này được bảo tồn tốt, và các tàn tích khổng lồ của các bức tường cyclopaean cùng các cung điện trên vệ thành vẫn khơi dậy sự ngưỡng mộ của khách tham quan, đặc biệt khi người ta nhớ lại rằng chúng được xây hàng ngàn năm trước các công trình của Hy Lạp cổ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflich_su_72__1913.pdf