Xã hội học nghề nghiệp (XHHNN) là một bộ môn khoa học chuyên ngành, do vậy, nó được xây dựng trên cơ sở những đối tượng chung, quen thuộc của xã hội học đại cương (XHHĐC) và có những đối tượng đặc thù riêng của mình.
Về mặt phương pháp luận, XHHNN vẫn cần sử dụng những khuôn khổ lý luận và những phương pháp nghiên cứu chung, phổ biến trong XHHĐC. Tuy nhiên, như một bộ môn khoa học chuyên ngành, nó cần phát triển và có được những điều chỉnh sao cho hiệu quả và phù hợp với các đối tương nghiên cứu riêng, đặc thù.
Khi nói đến đối tượng nghiên cứu của xã hội học nghề nghiệp, ta cần phải quay về với đối tượng nghiên cứu của xã hội học nói chung (hay là XHHĐC). Như vậy, nếu nói xã hội học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ giữa con người và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm và giữa các nhóm hay cộng đồng xã hội thì xã hội học nghề nghiệp sẽ đặc biệt chú ý nghiên cứu cũng chính các quan hệ đó nhưng khi và chỉ khi mà chúng được hình thành trong (cùng với hoặc thông qua) nghề nghiệp của họ.
Thực tế, quan hệ xã hội và quan hệ đồng nghiệp, quan hệ ‘bạn’ và ‘bạn đồng nghiệp’ tất yếu có nhiều điểm tương đồng, trùng lặp do vế sau chỉ là một trường hợp riêng, chỉ là một yếu tố khả dĩ (có khả năng) cấu thành nên vế trước. Song, điều khiến cho người ta quan tâm trước hết có lẽ lại là những khác biệt, những gì không bị bao trùm hay trùng lặp, ở trong mỗi cặp quan hệ như vậy. Điều này có một ý nghĩa lý luận đáng kể bởi với các cặp phạm trù chung/riêng, tổng thể/bộ phận, đại cương/chuyên biệt/chuyên ngành rất cần và có thể được nhận thức/giải mã thông qua việc mô tả, phân định/nhận dạng và phân loại các (cặp) quan hệ đó trong thực tế đa chiều/đa dạng của đời sống xã hội không ngừng biến đổi.
Một mặt, tổng thể bộ máy công cụ, hệ thống khái niệm và lý luận chung đã hình thành và phát triển trong xã hội học (đại cương) cần phải đóng vai trò nền tảng và bảo đảm những tiền đề thiết yếu cho việc hình thành, phát triển một bộ môn xã hội học nghề nghiệp chuyên biệt. Nhưng mặt khác, nếu như không tự phát triển được những khái niệm công cụ và hệ thống lý luận riêng của mình, xã hội học nghề nghiệp cũng sẽ không thể trở thành một bộ môn khoa học (chuyên biệt) được.
129 trang |
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một khái niệm nổi bật. Khái niệm này được phát triển bởi Larson (1977), nó bao gồm những đặc điểm chi tiết và quá trình phát triển thông tin lịch sử, theo đó mỗi nhóm nghề nghiệp khác nhau đều tìm kiếm sự độc quyền cho mình trên các thị trường dịch vụ chuyên môn, cũng như địa vị và sự thăng tiến của họ (tập thể và cá nhân) trong xã hội. Theo Abbott, ý tưởng về một dự án nghề nghiệp được phát triển theo cách khác (1988), ông đã kiểm tra việc xây dựng một nghề, công tác văn hóa và các điều kiện tiên quyết đó là cần thiết để thiết lập tính hợp pháp của việc thực hành độc quyền.
Nghề nghiệp mà Larson đưa ra vẫn thường xuyên được trích dẫn và cuốn sách giáo khoa về nghề nghiệp của MacDonald (1995) tiếp tục sử dụng thuật ngữ này và điều đó đã hỗ trợ cho những phân tích của bà trong việc kiểm tra các lĩnh vực chuyên môn về kế toán. Kết quả của một dự án nghề nghiệp thành công là sự độc quyền được hợp pháp hoá bởi sự xử phạt “chuyên môn”, và sự độc quyền về uy tín với công chúng (Larson 1977:38). Những giải thích của Larson là không thể bác bỏ. Freidson (1982) ưu tiên thị trường "mái ấm" để hoàn thành độc quyền trong việc cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, điều mà đã bị truy tố về bản chất không đầy đủ của các dự án kín trên thị trường. Cũng nhờ những điều đó mà những phân tích kỹ càng của Larson đã được đơn giản bởi những người ủng hộ nhiệt tình như vậy mà một số nhà nghiên cứu nói về các dự án nghề nghiệp, cũng như các ngành nghề và các hiệp hội chuyên nghiệp không làm gì khác ngoài việc bảo vệ sự độc quyền thị trường cho chuyên môn của mình.
Một quan điểm khác của cách giải thích xã hội học này về nghề nghiệp đã được khái quát là nghề nghiệp, như các nhóm người lao động mạnh mẽ, họ không chỉ khép kín thị trường, chi phối và kiểm soát các lĩnh vực khác trong ngành nghề này mà họ còn có thể “bắt” các tiểu bang và thương lượng “giá rẻ quy định” với các quốc gia vì lợi ích các thành viên của mình. Một lần nữa đây là một khía cạnh của lý thuyết về nghề nghiệp trong thập niên 1970 (ví dụ Johnson 1972). Nó có một tính năng đặc biệt trong việc phân tích nghề y (ví dụ như Larkin, 1983), nơi các nhà nghiên cứu đã giải thích mối quan hệ giữa các chuyên gia y tế như bị kiểm soát bởi sự thống trị y tế cũng như quan hệ giới tính (ví dụ như Davies, 1995).
Kể từ giữa những năm 1980, những sai lầm trong các cách nhìn cực đoan hơn của quan điểm này về tính chuyên nghiệp như là một luận điểm về việc khép kín/đóng cửa thị trường và kiểm soát đã trở nên rõ ràng. Annandale (1998) đã xem xét khía cạnh của sự thống trị y tế và đã liên hệ điều này với sự đa dạng, hệ thống phân cấp lại sự phân tầng và phát triển trong nghề nghiệp y tế của chính nó - đó là một số bác sĩ có thể trở nên chiếm ưu thế, cùng với một số y tá và một số nữ hộ sinh. Nói chung, nó đã trở thành các chính phủ cấp tiến thành công có thể thách thức các ngành nghề. Sự công nhận làm cho một vài kế hoạch, dự định bị thay đổi và chính phủ bị ảnh hưởng nhưng sự thừa nhận đó thường trả lời về những nhu cầu bên ngoài cho sự thay đổi, có thể là về chính trị, kinh tế, văn hoá, và xã hội. Những hậu quả này thường có tác động trở lại về những minh chứng trong lịch sử, thiếu sự yên lặng. Một hướng đi cho sự phát triển chính là tầm nhìn về thuyết nhu cầu, rất cần thiết cho những chuyên môn về sự hiểu biết được toàn diện về vấn đề này. Cuối cùng, để trả lời cho câu hỏi Các bang nắm bắt được sự công nhận đó như thế nào. Nó có thể là câu trả lời trung tâm - Tại sao các bang có sự phát sinh hay ít nhất chịu thừa nhận cho sự công nhận được đi lên. Điều này đã dẫn đến một quan tâm mới của luận điểm về tính chuyên nghiệp và trong các bằng chứng lịch sử về các quá trình song song của sự sáng tạo từ dân tộc hiện đại - các quốc gia trong nửa sau của thế kỷ 19 và các ngành nghề hiện đại trong cùng kỳ. Nó cũng dẫn đến sự quan tâm mới trong phân tích so sánh cũng như trong việc xem xét các ngành nghề chuyên nghiệp ở châu Âu, nơi mà đối với hầu hết các lĩnh vựa, các khái niệm về nghề nghiệp (nếu nó tồn tại ở tất cả) và các diễn ngôn về tính chuyên nghiệp của nhà xã hội học đã được sử dụng và giải thích trong những cách khác nhau.
2. Một cách giải thích khác nhau giữa bình thường hóa và lao động xã hội
Trong sự nỗ lực nhằm đẩy sự phân tích xã hội học gần hơn nữa đến khái niệm về sự chuyên môn giống như một diễn thuyết sự thay đổi của nghề nghiệp, tâm điểm có lẽ cần được thay đổi thành sự phân tích rằng: nó được thể hiện một cách chi tiết về chuyên môn như một (phạm vi có) tính chuẩn mực và tính hợp pháp, và của xã hội học nghề nghiệp và sự đồng nhất. Theo cách hiểu nó được nhắc đến ở đây, sự chuyên môn không quy vào bài diễn thuyết của tác giả và mối quan tâm của nhà nghiên cứu. Đúng hơn thì đây là cách hiểu của (bản thân) tác giả, cải về lời giải nghĩa xã hội học và thói quen của người hành nghề.
Phân tích tính hợp pháp và bình thường hóa, như là một tài sản của cả hai hệ thống và hành động, đã được phát triển đầy đủ nhất trong phân tích của Foucault trong bản chất của chính phủ và hiến pháp của các đối tượng công dân trong các xã hội hiện đại. Trong một số khía cạnh này đã gợi nhớ đến các phân tích đầu tiên được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu người Anh tập trung vào ngành nghề, họ có những đóng góp cho sự ổn định xã hội và văn minh (ví dụ như Tawney, 1921; Carr-Saunders và Wilson, 1933; Marshall, 1950)
Đối với những ngành nghề như hệ thống của Foucault (1979), tiếp theo Weber (xem Bendix, 1966, tr 417–30), rằng sự phát triển của các hình thức cụ thể về chuyên môn trong sự hình thành của chính phủ từ thế kỉ 16 trở đi. Tổng kết lí luận của Foucault, Johnson (1992) cho thấy cách mở rộng khả năng cai trị phụ thuộc vào chuyên môn theo hình thức chuyên nghiệp của nó và sự phát triển của khu vực pháp lý chuyên gia và các hệ thống ký hiệu, tài liệu, đánh giá, tính toán và thẩm định
Sự mở rộng quyền lực này, của khả năng nắm giữ tới việc cầm quyền, cần thiết phải có một sự thay đổi cơ bản có tính hợp pháp. Sự chấp nhận của quyền lực đối với quyền thiêng liêng đã bị suy giảm và thay đổi bởi các văn bản, cái mà đuợc tuân thủ phổ biến nhờ đến pháp luật sẽ là nguồn lực nền tảng cho các chuẩn mực hợp pháp (Foucault, 1979, tr 12). Điều này đã không được foucalt bộc lộ như một sự thống trị công khai nhưng đúng hơn là sự bình thường hoá các đối tượng sẽ tuân thủ (Johnson, 1992).
Sự chuyên môn hay sự chuyên nghiệp thường là vướng mắc quen thuộc trong chế biến của sự bình thường hoá điều này có quyết định đến sự tái sản xuất, mở đầu sự công nhận trong các bang thuộc (ảnh hưởng của đảng
) dân chủ tự do (Johnson, 1992). Sự bình thường hoá, kể cả sự tái sản xuất trở lại của các nhà chuyên môn là rất có quyền thế. Sự thừa nhận của quyền thế, sự chuyên nghiệp đi liền với sự củng cố vững chắc của các bang có quyền lực. Chấp nhận quyền lực của chính phủ và của các chuyên gia được quan hệ với nhau và là một phần của tiến trình bình thường hoá vấn đề công dân. Perkin (1988) cũng nhấn mạnh đến vai trò liên kết chặt chẽ giữa nhà nước-quốc gia và các chuyên gia trong việc tạo ra một trật tự tư bản hợp pháp tại Anh, giai đoạn 1880-1920. Trên một số khía cạnh, các nguyên tắc tổ chức của các ngành nghề có thể được xem là quá trình bình thường hóa kiểu mẫu; đào tạo chuyên nghiệp, trong lý thuyết, là phải tu luyện một sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích bản thân và tập thể được duy trì bởi sự tương tác với cộng đồng nghề nghiệp của mình hoặc đồng nghiệp và mong muốn không để mất ưu điểm của mình vì tham lam quá mức hay lạm dụng quyền lực. Như một mô hình được xem là vấn đề quan trọng như nhiều tác giả đã quan sát thấy, nhưng một cách tượng trưng thì nó vẫn rất mạnh mẽ và tiếp tục dùng để giải thích sự hấp dẫn của tính chuyên nghiệp tại hệ thống hoặc mức độ nghề nghiệp.
Ở cấp độ cá nhân của các diễn viên, khái niệm về sự bình thường hóa các môn công dân cũng là một yêu cầu trung tâm trong đối số của Foucalt kể từ khi quyền lực chính trị hợp pháp phụ thuộc vào sự phục tùng của đối tượng. Kết quả là Foucalt tập trung nhiều công việc sau này của ông vào vai trò của kỷ luật, kỷ luật trong sự phát triển của chủ thể đó- trong trường hợp các nghiên cứu của ông về hệ thống sự hình thành và các quy định của tình dục. Những nét nổi bật của vấn đề ép buộc thẳng thừng này dẫn đến quy luật tiêu chuẩn hóa mà kỉ luật chung sẽ là kỉ luật mang tính riêng biệt. Đó là nơi quyền lực chủ chốt được tiếp thu và tiên phong khá hơn là những tác động từ bên ngoài. Đó là điều quan trọng trong trí tuệ của bài thuyết trình thành thạo trong tin tức và tồn tại bối cảnh nghề nghiệp để xem xét những phần tiếp theo.
Quá trình này cũng có thể được quan sát thấy trong các nghiên cứu về xã hội hoá nghề nghiệp
và sự hình thành, thông qua đào tạo nghề và kinh nghiệm nghề nghiệp, có bản sắc nghề nghiệp. Đó là một bản sắc nghề nghiệp cung cấp cho cá nhân một cảm giác tự tin và mạnh mẽ và ảnh hưởng đến nghề nghiệp và hành vi khác. Cộng đồng giữa những đồng nghiệp và các hệ thống phân cấp các vị trí trong tổ chức, nơi làm việc khác (chẳng hạn như đồng nghiệp, cấp trên và thiếu nhi) liên tục được nhắc lại và củng cố tự ý thức vị trí này cũng như hành vi thích hợp để quyết định công việc và sự lựa chọn.
Trình độ chuyên môn hay các yếu tố nghề nghiệp là một bộ phận của khả năng tự quyết trong công việc và quá trình xã hội hóa nghề nghiêp.
…
Cuộc đàm luận về người làm nghề chuyên nghiệp hay về bản sắc nghề nghiệp là một phần của ý thức tự xã hội hóa trong công việc và thực hành chuyên nghiệp. Đó chính là căn cứ chính xác của cách thức của sự tái sản xuất và sự tăng cường bản sắc nghề nghiệp, cái mà tạo nên bước ngoặt trong nghề nghiệp nhờ vào việc vượt qua những khó khăn trong công việc.
Những quá trình hình thành bản sắc nghề nghiệp này có thể áp dụng vào trong mọi loại công việc nhưng đặc biệt quan trọng ở những vị trí cấp cao trong thương mại, công nghiệp, dịch vụ và các tổ chức chính trị. Một phần của quá trình này là sự chuẩn bị cho sự nghiệp, thông qua trình tự các giai đoạn nghiên cứu nghề nghiệp và chuẩn bị nghề nghiệp, thông qua các chuỗi nghề nghiệp cũng như các giai đoạn nghiên cứu tạo nên quỹ đạo nghề nghiệp. Trong trình tự và qua các giai đoạn, cá nhân được chuẩn bị và chuẩn bị bản thân mình. Họ đưa ra những quyết định đúng đắn bằng việc lực chọn hành vi đúng (giải thích trong những cuộc đàm luận), họ thực hiện theo sự mong đợi của người cấp trên, và sức hấp dẫn từ những phần thưởng sau đó đối với cơ hội để họ có được thăng tiến trong nghề nghiệp, cũng như đạt được vị trí nghề nghiệp theo thâm niên. Việc giải thích sự nghiệp như là sự quản lý liên quan đến bản thân cũng như động cơ thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân được đưa ra bởi (nhiều) nhà nghiên cứu người Anh. Nói cách khác, các nhân viên và học viên, công nhân chuyên nghiệp được quyền tự điều khiển, tự quản lý và tự tạo động lực để có được những lựa chọn công việc/những quyết định thích hợp (giải thích trong những cuộc đàm luận thích hợp), sẽ được công nhận và khen thưởng với sự tiến bộ nghề nghiệp và thành tích đạt được.
Đó là lưu ý quan trọng, tuy nhiên, những quá trình này (và cuộc đàm luận chuyên nghiệp) cũng giải thích sự tái sản xuất nghề nghiệp, cái mà có tính liên tục và sự ổn định. Điều gì là tất yếu sau đó và hiện nay điều gì còn thiếu, về mặt lý luận cũng chính là sự cố gắng của các nhà nghiên cứu để giải thích sự biến đổi nghề nghiệp và làm sao cũng như tại sao cuộc tranh luận của người làm nghề chuyên nghiệp là lợi dụng thứ bậc để thăng cấp và làm cho việc thay đổi nghề/di động nghề nghiệp dễ dàng hơn.
3. Sức mạnh của ngôn từ về tính chuyên nghiệp trong việc thúc đẩy sự thay đổi nghề nghiệp.
Phần mở đầu của báo cáo này đưa ra các ví dụ về một vài các loại thay đổi nghề nghiệp hiện đang được xem là cần thiết và là yêu cầu của nhà tuyển dụng, nhà quản lý (và đôi khi, cả các chính trị gia) trong những hoàn cảnh khác nhau của việc làm. Điều này bao gồm ngân sách gọn nhẹ hơn và phân cấp, đòi hỏi nhiều hơn ở (và tranh tụng với) khách hàng, quy định chặt chẽ hơn ở công nhân, sự định rõ các mục tiêu và việc kiểm tra các thành tựu. Những thay đổi này được áp dụng trong hầu hết các ngành nghề, tại những nơi làm việc với điều kiện làm việc và phương thức hoạt động khác nhau. Trong rất nhiều những nơi làm việc, những cuộc đàm luận về tính chuyên nghiệp đang được sử dụng để tuyển dụng và khuyến khích người lao động cũng như tạo điều kiện thay đổi nghề nghiệp. Như vậy, người lao động sẽ nhận được sự đào tạo về nghề nghiệp và được xác nhận như là một phần của quá trình chuyên nghiệp hóa trong việc làm của họ.
Phần mở đầu cũng lặp đi lặp lại và mở rộng các câu hỏi của Larson, cụ thể là, làm thế nào nó vừa là một tập hợp các công việc thực tiễn mà lại vừa có đặc trưng của pháp luật và y học (ít nhất là một phần trong lịch sử của chúng) và đã trở thành một tập hợp tiếng nói quần chúng đầu tiên cho những người (làm nghề) kỹ sư, kế toán và giáo viên. Tiếp đó, làm thế nào cùng một điều kiện làm việc và quan hệ lao động (ví dụ, dược sĩ, nhân viên xã hội, người phụ tá và nhân viên y tế khác, các chuyên gia tài chính, chuyên gia tư vấn, người thực thi pháp luật và dịch vụ lao động bảo mật). Tiếp nữa, là sự hấp dẫn và thu hút của các cuộc đàm luận về tính chuyên nghiệp cũng như làm thế nào và tại sao nó được sử dụng để thúc đẩy sự thay đổi nghề nghiệp trong rất nhiều hoàn cảnh việc làm nghề nghiệp khác nhau?
Sử dụng giải thích của Foucault như là một sự tiêu chuẩn hóa và sự giải thích này là sự hợp pháp hóa thông qua các thẩm quyền và quyền tự lựa chọn, là “tự trị” để hành động theo những cách thích hợp, một nhà nghiên cứu người Anh, Fournier (1991), đã quan tâm đến lời kêu gọi của những người làm nghề chuyên nghiệp như một cơ chế kỷ luật lao động trong những hoàn cảnh làm việc mới
. Bà cho thấy làm thế nào để sử dụng các ngôn ngữ về tính chuyên nghiệp trong một công ty tư nhân dịch vụ lớn của lao động quản lý phục vụ để khắc sâu những công việc "thích hợp", cách tiến hành và thực hành. Bà coi đây là một logic thực hành kỷ luật, trong đó có nhấn mạnh "tự trị" chuyên nghiệp/trong chuyên môn, ở trong một mạng lưới các trách nhiệm và sự điều chỉnh việc hành nghề từ xa.
Tiếp đó, một mặt, ở cấp độ các cá nhân, việc kêu gọi chuyên nghiệp có thể được xem là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự kiểm soát từ xa (chẳng hạn, theo Miller & Rose, 1990). Mặt khác, ở cấp độ hệ thống, chẳng hạn như nghề nghiệp, sự hấp dẫn đối với người làm việc chuyên nghiệp cũng có thể được xem là một cơ chế để thúc đẩy sự thay đổi nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong trường hợp này, lời kêu gọi là một biểu hiện, vật biểu tượng hoặc một ý thức hệ chuyên nghiệp bao gồm các lĩnh vực như quyền sở hữu độc quyền của một khu vực kiến thức và chuyên môn, sự tự chủ và độc lập trong việc thực hành công việc, và quy tắc (hành nghề) của bản thân. Trong thực tế, thực tiễn của tính chuyên nghiệp so với dự kiến thực sự là rất khác nhau. Trong trường hợp này, tính chuyên nghiệp (biểu hiện) thường xuyên hơn, bao gồm các lần tinh giản biên chế và hạn chế ngân sách, mở rộng hay thay đổi về vai trò nghề nghiệp, cũng như thực hành công việc, quan liêu hóa và công việc bàn giấy cũng như tính chuyên nghiệp đã được các nhà xã hội học sử dụng và giải thích theo những cách tương đối khác nhau.
Sức mạnh của nghị luận về tính chuyên nghiệp ngày càng được sử dụng, để thúc đẩy những thay đổi mang tính nghề nghiệp và kiểm soát nhiều hơn việc có được một cơ chế kỷ luật đối với lao động chuyên nghiệp và tham vọng nghề nghiệp trong thời gian hiện tại cũng như hiện tại bối cảnh nghề nghiệp, là một trong những câu hỏi quan trọng bây giờ phải đối mặt với xã hội học nghề nghiệp.
Các bàn luận về tính chuyên nghiệp khá hấp dẫn cho các nhóm nghề nghiệp và các học viên bao gồm các khía cạnh như quyền sở hữu độc quyền của một lĩnh vực chuyên môn, kiến thức và sức mạnh để xác định bản chất của các vấn đề trong lĩnh vực đó cũng như kiểm soát các truy cập đến các giải pháp tiềm năng. Các khía cạnh về bàn luận chuyên nghiệp và sức hấp dẫn của nó, được quyền tự chủ trong việc ra quyết định và theo quyết định trong thực tiễn công việc, ra quyết định vì lợi ích công cộng, và trong một số trường hợp (ví dụ như nghề y tế trong lịch sử) thậm chí còn tự điều chỉnh hoặc kiểm soát lao động của làm việc (Freidson 1994)
Thực tế của các bàn luận về tính chuyên nghiệp trong bối cảnh các (hoạt động) lao động khác là hơi khác nhau, tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã trở thành một đặc điểm của hầu hết các nước phương Tây được giải thích bởi chính phủ như là một kết quả của việc tăng chi phí phúc lợi đặc biệt và các dịch vụ xã hội chuyên nghiệp. Các biện pháp khắc phục hậu quả, những cố gắng để có các cuộc khủng hoảng tài chính đã được diễn ra, đôi khi được thúc đẩy, thí dụ như ở Anh với một hệ tư tưởng mới, bởi một “rationalizations" thể chế cũng như phát huy một nền văn hóa tổ chức trong lĩnh vực dịch vụ chuyên nghiệp nào. Các quan niệm về chỉ số trách nhiệm và hiệu quả đã trở thành một khía cạnh cơ bản của thuyết luận chuyên nghiệp. “Chuyên gia” của tất cả các tổ chức mà họ làm việc có mục tiêu thành tích để biện minh cho nhận của họ về chi tiêu công cộng và cho phép hiệu suất của các tổ chức cụ thể (ví dụ như trường học, trường đại học, bệnh viện), và các đặc tính “chuyên nghiệp” trong họ, để được tính toán và so sánh. Tương tự, các tổ chức khác cũng xác định các mục tiêu như vậy, và đôi khi bằng ngân sách phân cấp, yêu cầu tất cả các đơn vị ngân sách làm rõ và tối đa hóa thu nhập trong khi kiểm soát chi tiêu.
Vì vậy, hầu hết nếu không phải tất cả các tổ chức, thực tế nếu luận về tính chuyên nghiệp mà là dự kiến trong những hoàn cảnh nghề nghiệp bao gồm các hạn chế tài chính-ngân sách và cắt lưng, làm giảm chi phí và một số giảm nhân lực, đào tạo và kỷ luật lực lượng lao động làm việc với đặc điểm tổ chức, quan liêu trong quản lý; một vai trò mở rộng và mở rộng bao gồm mới cũng như trách nhiệm hiện tại, và sự cần thiết để minh chứng những thành tựu ở bên ngoài các mục tiêu được xác định.
Một việc cũng khá quan trọng để xem xét kháng cáo, chuyên nghiệp như một cơ chế kỷ luật ở mức vi mô. Fournier (1999:290) đã chứng minh như thế nào hoàn nguyên của các nhân viên là các chuyên gia liên quan đến nhiều hơn hay chỉ là một quá trình tái ghi nhận, nó sẽ liên quan đến việc phân định "bản sắc công việc phù hợp" và có khả năng cho phép kiểm soát khoảng cách kỷ luật logic của tính chuyên nghiệp ở người lao động để có nhãn. Trong bối cảnh mới và hiện có, nghề nghiệp và tổ chức, lao động dịch vụ và các nhân viên khác đang phải tái thiết lại chính mình trong hình thức tổ chức và lao động mà kết hợp phát triển sự nghiệp cùng với việc quản lý bản thân và nhân viên tự động (Grey, 1994; Fourier, 1998). Nói cách khác, những người chủ thuyết của thuyết luận chuyên nghiệp, và thực hiện theo những cách tổ chức xác định là thích hợp như mong muốn, sẽ được phần thưởng xúc tiến sự nghiệp và tiến bộ.
Một khía cạnh khác thú vị của câu hỏi chuyên nghiệp là làm thế nào những hậu quả và ảnh hưởng của sự hấp dẫn và thu hút của các bàn luận về tính chuyên nghiệp được diễn ra khác nhau trong các dịch vụ khác nhau và tri thức nhóm nghề nghiệp với các tình huống công việc rất khác nhau. Khi xem xét khía cạnh này, nó có thể được cho rằng Anh - Mỹ về tầm quan trọng về y học và pháp luật như là các nhóm chuyên nghiệp nguyên mẫu đã được phần lớn là vô ích. Một hậu quả đã được rằng Anh - Mỹ các nhà khoa học xã hội đã phát triển một cái nhìn méo mó về sức mạnh của một số giới hạn của các nhóm nghề nghiệp để ảnh hưởng đến các quốc gia, nhu cầu và giữ lại quyền hạn quy định từ các tiểu bang này, và kiểm soát các thị trường cho kiến thức của mình và dịch vụ. Đối với nhóm nghề nghiệp khác đã có sự khác nhau chú ý đến phân tích các ngành nghề ít thành công trong việc sử dụng biện luận về lợi ích riêng của họ (chẳng hạn như kỹ sư và giáo viên)
…
Các quá trình hình thành bản sắc nghề nghiệp áp dụng trong tất cả các loại nghề nghiệp, nhưng đặc biệt quan trọng ở các vị trí cấp cao như thương mại, dịch vụ, công nghiệp và các tổ chức chính trị. Một phần của quá trình này là quá trình chuẩn bị thông qua nghề nghiệp, trình tự một giai đoạn nghiên cứu như quỹ đạo nghề nghiệp. Trình tự và các giai đoạn, cá nhân được chuẩn bị và tự chuẩn bị cho bản thân. Họ đưa ra quyết định đúng đắn, lựa chọn hành vi đúng, (giải thích trong bài giảng phù hợp), thực hiện, theo kỳ vọng của cấp trên và một số sau đó được khen thưởng với sự tiến bộ nghề nghiệp và vị trí nghề nghiệp cao cấp. Việc giải thích về sự nghiệp như liên quan đến sự tự quản lý và động lực cũng đã được nghiên cứu bởi những nhà nghiên cứu ở Anh (như Grey, 1994; Fournier, 1998).
Nói cách khác, các nhân viên và học viên công nhân chuyên nghiệp là những người tự chủ, tự quản lý và năng động để có những lựa chọn công việc thích hợp, quyết định (giải thích và phân tích vào giảng bài phù hợp), sẽ được công nhận và khen thưởng với tiến bộ và sự nghiệp thành tích.
Điều quan trọng cần lưu ý, tuy nhiên, các quá trình này (và các chuyên luận) giải thích sự sao chép nghề nghiệp, đó là liên tục và ổn định. Điều gì là cần thiết sau đó, và những gì hiện đang mất tích trong lý thuyết, là để cố gắng giải thích sự thay đổi nghề nghiệp, và làm thế nào và tại sao các diễn ngôn về tính chuyên nghiệp đang được sử dụng để thúc đẩy và tạo điều kiện thay đổi nghề nghiệp.
Một khía cạnh khác thú vị của câu hỏi này kháng cáo của các chuyên nghiệp là làm thế nào những hậu quả và ảnh hưởng của sự hấp dẫn và thu hút của các luận về tính chuyên nghiệp được diễn ra khác nhau trong các dịch vụ khác nhau và tri thức nhóm nghề nghiệp với các tình huống công việc rất khác nhau. Khi xem xét khía cạnh này, nó có thể được lập luận rằng trong Anh-Mỹ-nhấn mạnh vào y học và pháp luật như là các nhóm chuyên nghiệp nguyên mẫu đã được phần lớn là vô ích. Mot hau qua ma các nhà khoa học Anh - My phát triển một xa hoi nhìn méo mó về sức mạnh của một số giới hạn của các nhóm nghề nghiệp để gay ảnh hưởng đến các quốc gia, nhu cầu và giữ lại quyền hạn quy định từ các bang này, và kiểm soát (thông qua thực hành độc quyền) các thị trường cho các kiến thức và dịch vụ của họ. Đối với các nhóm khac lao động , tuy nhiên, các luận đã làm việc, và đã được làm việc theo những cách khác. Nhìn chung, sau đó, mot tập trung mạnh vào (trước đây) nhóm nghề nghiệp đã chệch hướng chú ý đến phân tích các ngành nghề nói chung được những người có ít thành công trong việc sử dụng nguon lợi ích riêng của họ (chẳng hạn như kỹ sư và giáo viên) và thực sự có khuyết tật và ngăn chặn cuộc thảo luận như thế nào và tại sao rất nhiều dịch vụ mới và kiến thức dựa trên các nhóm lao động bị thu hút bởi sự hấp dẫn của thuyết này.
Trong việc cố gắng tìm hiểu những ảnh hưởng của sự thay đổi giữa các nhóm lao động, việc tìm về cách phân loại chuyên nghiệp (nghề nghiệp) của McClelland (1990:170) "từ bên trong" (nhóm đã áp dụng thành công vào thị trường) và "từ trên xuống” (sự thống trị của các lực lượng bên ngoài nhóm) có vẻ có tác dụng. Phân loại này được dùng để phân biệt các hình thức chuyên môn của người Anh-Mỹ và Đức và cách phân loại ở đây mắc phải một số vấn đề bất ổn. Đặc biệt là nó lại có xu hướng đơn giản hoá và cường điệu hoá một số nhóm nghề nghiệp của người Anh-Mỹ để yêu cầu trách nhiệm pháp lý từ quốc gia. Dingwall (1996) đã lập luận rằng bên cung cấp cũng đóng một vai trò quan trọng và nó là điều kiện cần thiết để xem xét lý do tại sao trong những hoàn cảnh lịch sử và chính trị nhất định, một số bang lại cho phép các ngành nghề phát triển một cách tự do như vậy.
Sự phân loại này có thể được sử dụng thay vì việc chỉ ra và giải thích các tập quán khác nhau về ngôn từ mang tính chuyên nghiệp trong các nhóm nghề nghiệp khác nhau. Trường hợp đơn khiếu nại chuyên nghiệp được thực hiện và áp dụng bởi các nhóm nghề nghiệp riêng và được áp dụng “từ bên trong” sau đó chuyển tới các nhóm khác một cách đáng kể. Trong những trường hợp lịch sử như thế này các nhóm đã có thể sử dụng các luận điểm trong việc xây dựng và nhận dạng các nhóm nghề nghiệp, tạo được hình ảnh của mình với khách hàng và các nhóm thương lượng với các quốc gia để bảo đảm và duy trì trách nhiệm pháp lý của nó. Trong trường hợp này, nó như một cách để các học viên đều quan tâm nhưng đôi khi nó cũng như một cách để thúc đẩy và bảo vệ lợi ích của cộng đồng.
Tuy nhiên trong hầu hết các dịch vụ hiện đại thì tính chuyên nghiệp đang được áp dụng theo cách "từ trên xuống" ở mọi khâu làm việc và điều này có nghĩa là các nhà tuyển dụng và nhà quản lý nằm ở khâu tổ chức dịch vụ còn các chuyên gia lại làm việc. Cách lý giải ở đây là một phần căn bản của tính chuyên nghiệp (của dịch vụ cống hiến và việc ra các quyết định độc lập). Thuyết này được xây dựng và áp dụng theo kiểu "từ trên xuống", sau đó lý thuyết này được chọn lọc sử dụng để thúc đẩy và tạo điều kiện thay đổi nghề nghiệp và là một cơ chế kỷ luật của các đối tượng tự trị trong việc thực hiện những hành vi thích hợp. Thuyết về tính chuyên nghiệp được hưởng ứng bởi các nhóm nghề nghiệp kể từ khi nó được xem là một cách để cải thiện tình trạng nghề nghiệp và khen thưởng tập thể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xhh_nghe_nghiep_887.doc