Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh
cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học
có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( ); người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả
mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc
của con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ
phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp
cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với
người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm
kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư
cách là một hình thái ý thức xã hội.
78 trang |
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng T`riết học (dành cho học viên cao học), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác hiểu thấu được các HTKT- XH trước đó.
Đồng thời, chính sự giải phẫu của C.Mác đối với xã hội tư bản và các quy luật vận động
của nó đã cho phép ông dự báo một cách khoa học về xã hội tương lai.
C.Mác coi HTKT-XH mới này là một cơ thể xã hội vận động và biến đổi không ngừng.
CNXH là một giai đoạn, một trình độ phát triển của CNCS.
Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về đặc trưng của CNXH
Cơ sở vật chất của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí.
CNXH xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về TLSX.
CNXH điều tiết có kế hoạch nền sản xuất xã hội và nền sản xuất hàng hoá về cơ bản se
trở nên thừa.
CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
CNXH khi đã xây dựng xong, CNCS được thực hiện thì xã hội sẽ không còn giai cấp.
CNXH giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện.
CNXH thực hiện sự bình đẳng xã hội.
CNXH thực sự là sự nghiệp của bản thân quần chúng, là kết quả của quá trình sáng tạo
của quần chúng.
V.I.Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác trong việc phân tích xã hội tư bản và
dự báo về CNXH, CNCS.
Sau thời gian bắt tay vào xây dựng CNXH, Lênin đã nhận ra sự khó khăn, phức tạp của
công cuộc xây dựng CNXH, đặc biệt là đối với những nước kém phát triển.
V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận cách mạng không ngừng trong điều
kiện mới. Tư tưởng này quán xuyến toàn bộ học thuyết cách mạng vô sản của V.I.Lênin.
Coi CNĐQ là phòng chờ của CNXH
Nhận định về quy luật phát triển không đều của CNTB thời đại đế quốc
V.I.Lênin đã phân chia quá trình hình thành và phát triển của CNXH và CNCS thành 3
giai đoạn:TKQĐ, CNXH, CNCS.
Trung thành với những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển tư
tưởng về sự phát triển "rút ngắn" và dùng thuật ngữ "không trải qua giai đoạn phát triển
TBCN".
V.I.Lênin nêu ra quan điểm về hai hình thức quá độ: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp.
2. CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung và vai trò lịch sử của nó.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với việc hình thành LLSX hiện đại; tính quốc tế
56
của LLSX với quá trình toàn cầu hoá; sự hình thành, phát triển kinh tế tri thức.
Quá độ lên CNXH, CNCS với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn CNTB
là một xu hướng tất yếu của thời đại.
Sự khủng hoảng và sụp đổ của CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung; sự phát triển
của CNTB và vai trò lịch sử của nó
Từ những năm 70 (XX) trở đi CNXH rơi vào trình trạng trì trệ, khủng hoảng nhất là trong
lĩnh vực kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân phát sinh những trì trệ và khủng hoảng CNXH hiện thực là do nhận thức lý
luận một cách giáo điều về CNXH, và vận dụng một cách máy móc, cứng nhắc không phù
hợp với thực tiễn. Hơn nữa lý luận chưa phát triển tương xứng với thực tiễn.
Trong thời kỳ cải tổ, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã mất phương hướng chính
trị, chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thực hiện chính sách, bước đi, biện
pháp cải tổ kinh tế một cách phiêu lưu, vi phạm dân chủ XHCN. Vì thế đã mở đường cho
các thế lực chống CNXH tấn công phá hoại.
Từ đầu những năm 90 (XX) chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhiều đảng
Cộng sản và công nhân bị chia rẽ, ảnh hưởng của CNXH bị giảm sút nghiêm trọng.
CNXH hiện đang đứng trước nhiều khó khăn và thử thách chưa từng thấy. So sánh lực
lượng thế giới tạm nghiêng về CNĐQ, bất lợi cho lực lượng cách mạng và tiến bộ. Tuy
nhiên, phong trào cách mạng thế giới những năm gần đây đã có bước khởi sắc mạnh mẽ.
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản có đặc điểm dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê và sự tách rời về
mặt sở hữu TLSX với người lao động sản xuất trực tiếp.
Vai trò lịch sử của CNTB
CNTB đã tạo ra những nhân tố mới thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
CNTB đã gây ra những hậu quả nặng nề cho nhân loại.
CNTB đã tạo tiền đề vật chất đầy đủ và tiền đề xã hội chín muồi cho sự ra đời của xã hội
mới.
Ngày nay, CNTB đã có sự thích nghi và điều chỉnh nhưng những biến đổi của thời đại
càng chứng tỏ tính tất yếu khách quan của cách mạng XHCN
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với việc hình thành LLSX hiện đại; tính quốc tế
của LLSX với quá trình toàn cầu hoá; sự hình thành, phát triển kinh tế tri thức
Thế kỷ XXI có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt; xu
hướng khách quan của toàn cầu hoá.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển LLSX, nó đang đặt
ra cả cơ hội và thách thức cho các nước.
CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không
thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có.
57
Hiện tại, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và
quyết định con đường phát triển của mình.
CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự
thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới.
Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Nền kinh tế tri thức
Một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu
của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành kinh tế được gọi
là kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng sau:
- Đó là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức;
- Đó là nền kinh tế có hoạt động tốc độ nhanh và đổi mới nhanh;
- Đó là nền kinh tế mà trong đó mạng thông tin trở thành kết cấu hạ tầng quan trọng nhất
của xã hội;
- Đó là nền kinh tế với phương thức tổ chức sản xuất rất linh hoạt.
Nền kinh tế tri thức không phải là một HTKT-XH mới, mà là một cuộc cách mạng trong
LLSX, là xu thế khách quan của thời đại.
Quá độ lên CNXH, CNCS với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn CNTB
là một xu hướng tất yếu của thời đại
Sự thay thế xã hội TBCN bằng xã hội XHCN trong tiến trình lịch sử là một tất yếu khách
quan theo quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX.
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử vì
mục tiêu trực tiếp là xoá bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu chế độ người bóc lột người để thiết lập
một chế độ mới- chế độ XHCN.
Thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng XHCN, cách mạng phải trải qua một thời kỳ lâu
dài từ khi giai cấp CN giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công CNXH. Đó
là thời kỳ quá độ lên CNXH.
Thời kỳ quá độ lên CNXH
Thời kỳ cải tạo toàn diện và triệt để xã hội cũ (tiền tư bản hoặc TBCN) thành xã hội
XHCN thông qua cách mạng XHCN.
Tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp CN với một bên là giai cấp bóc lột và thế
lực phản động mới bị đánh đổ, chưa hoàn toàn bị xoá bỏ về mặt giai cấp. Một cuộc đấu
tranh giai cấp dưới những hình thức mới; nội dung mới và điều kiện mới để đất nước quá
độ lên CNXH.
Thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
Lịch sử XH loài người phát triển từ thấp đến cao đã và đang trải qua 5 HTKT-XH.
58
Song, do đặc điểm về lịch sử, về không gian và thời gian, không phải quốc gia nào cũng
phải trải qua tất cả các HTKT-XH có tính chất tuần tự từ thấp đến cao theo một sơ đồ
chung.
Lịch sử cho thấy, có những nước do những điều kiện bên trong và bên ngoài chi phối đã
bỏ qua một vài HTKT-XH nào đó trong tiến trình phát triển của mình.
Cả phát triển tuần tự qua các HTKT-XH lẫn phát triển rút ngắn bỏ qua một hình thái nào
đó đều là do những quy luật và điều kiện lịch sử quy định.
Những điều kiện để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
Thời đại ngày nay là quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn cầu kể từ thắng lợi của Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Những điều kiện để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
Đảng Cộng sản - Đảng của giai cấp công nhân - kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và giữ vai
trò lãnh đạo là Đảng cầm quyền.
Giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Chính quyền dân chủ cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết
lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện. Chính quyền quyết tâm đưa đất nước quá độ lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN.
Có sự ủng hộ, giúp đỡ của giai cấp công nhân ở các nước tiên tiến.
III. Vận dụng học thuyết HTKT-XH và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam
1. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn TBCN
Đảng ta và nhân dân ta quyết tâm xây dựng Việt Nam theo con đường XHCN trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng XHCN; vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng.
Đối với Việt Nam, con đường bỏ qua chế độ TBCN là tất yếu và có khả năng thực hiện
xét về phương diện chính trị và kinh tế.
Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quá độ gián tiếp, là một thời kỳ lịch sử lâu dài, là sự
nghiệp, công việc của nhiều thế hệ; là con đường hết sức khó khăn, phức tạp, chưa có tiền
lệ, không có khuôn mẫu.
Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của QHSX và KTTT tư bản chủ nghĩa.
2. Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
59
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu thế
phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX ở nước ta;
với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế thị trường XHCN không thể tách rời vai trò quản lý của nhà nước XHCN.
3. CNH, HĐH trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
CNH, HĐH ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.
Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
4. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong
quá trình xây dựng CNXH.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
CHƯƠNG IX
GIAI CẤP, DÂN TỘC, NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG
VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1- Khái quát các quan điểm ngoài Mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Tư tưởng về giai cấp đã xuất hiện từ thời kỳ cổ đại ở phơng Đông cũng như phơng Tây,
Pla-tôn nhà triết học Hy Lạp cho rằng, sự độc quyền quá lớn về của cải trong tay giai cấp
quý tộc là nguy hiểm về mặt chính trị, vì nó đẻ ra những mâu thuẫn hết sức sâu sắc.
Vào thế kỷ thứ IV - III tr.CN, ở Trung Quốc trong cuốn "Quản tự luận", chỉ rõ: sĩ, nông,
công, thương là cơ sở của Nhà nước. Những quan điểm về mâu thuẫn giàu - nghèo, về sự
giàu có bất chính, kêu gọi quan tâm tới người nghèo ... xuất hiện nhiều trong các tài liệu,
sách báo văn học ở các thời đại và ở các sách tôn giáo khác nhau.
60
ở Anh: Tô-mát Mo-rơ (1478 - 1535), ở I-ta-li-a: Tô-ma-đo Cam-pa-ne-la (1568-1639) và
ở Pháp: Rút-xô (1712-1778) cho rằng quyền tư hữu là gốc rễ của nhiều tai hoạ. Xanh Xi-
mông quan niệm, xác lập quyền sở hữu là cơ sở của kiến trúc xã hội, lịch sử xã hội loài
người là sự thay đổi những tiêu chuẩn xã hội khác nhau dựa trên chế độ sở hữu, ông coi
cuộc đấu tranh giai cấp thể hiện nguyện vọng của các giai cấp trong quá trình sản xuất.
Công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp gắn liền với tên tuổi của các
nhà sử học Pháp: G-Phrăng-xoa Ghi-do (1778-1874), Ô-guy-xtanh, Chi-e-ry (1795-1856)
và Phrăng-xoa Mi-nhê (1796-1884). Mặc dù họ chưa hiểu một cách khoa học về giai cấp
và đấu tranh giai cấp, nhưng các ông đã đưa ra những suy đoán sâu sắc về sự phân chia xã
hội thành giai cấp và xem đấu tranh giai cấp là nội dung chủ yếu của lịch sử.
Mặc dù họ chưa hiểu khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhưng các ông đã đưa ra
những suy đoán sâu sắc về sự phân chia xã hội thành giai cấp và xem đấu tranh giai cấp là
nội dung chủ yếu của lịch sử.
Mác, Ăngghen đánh giá cao những tư tưởng tiến bộ của các nhà sử học Pháp. Trong bức
thư gửi cho Stác-kin-buốc vào tháng 1 năm 1894, Ăngghen viết, nếu nói Mác đã phát hiện
ra quan niệm duy vật về lịch sử, thì Chi-e-ry, Mi-nhê, Ghi-do và tất cả các nhà sử học
Anh trước năm 1850 đã chứng minh rằng có nhiều người muốn làm việc ấy.
Các nhà sử học quan niệm sự hình thành giai cấp và Nhà nước là dựa trên cơ sở chinh
phục bằng vũ lực và sự tan rã của xã hội cũ, bằng sự nô dịch của những dân tộc và bộ lạc
này đối với dân tộc và bộ lạc khác, chưa thấy nguồn gốc giai cấp.
Họ xoá nhòa sự đối kháng giai cấp của xã hội tư bản và chủ trương cải tạo xã hội bằng sự
điều hoà mâu thuẫn giai cấp.
Mặc dù có những hạn chế đó nhưng các học giả tư sản trước đây đã có công phát hiện vấn
đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Mác nói rằng, bản thân ông không có công trong vấn đề
này và Lê-nin cũng khẳng định: "Thuyết đấu tranh giai cấp không phải do Mác, mà do
giai cấp tư sản trước Mác sáng tạo ra".(t.33, tr.42)
2. Quan điểm Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Khái niệm giai cấp, nguồn gốc và kết cấu giai cấp.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa có sản phẩm dư thừa tương đối nên chưa có khả
năng xuất hiện giai cấp. Chế độ tư hữu là cơ sở trực tiếp của sự hình thành giai cấp.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng nguyên nhân xã hội phân chia thành giai cấp là nguyên
nhân kinh tế chứ không phải nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. Sự ra đời cũng như sự
mất đi của của những giai cấp cụ thể đều dựa trên tính tất yếu kinh tế.
- Định nghĩa:
GIAI CẤP :
“ Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của
họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của
61
họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác
nhau về cách hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai
cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong chế độ kinh tế xã hội nhất định”. (1)
Phân tích nội dung định nghĩa giai cấp: Như vậy sự ra đời và tồn tại của giai cấp gắn liền
với những hệ thống sản xuất nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống
sản xuất là do những đặc trưng sau:
+ Đặc trưng 1: Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về quan hệ của họ đối với
việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Đây là đặc trưng quyết định sự hình thành
và phân chia giai cấp.
+ Đặc trưng 2: Các giai cấp khác nhau về vai trò trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức
quản lý lao động xã hội. Tức là khác nhau về quyền điều khiển sản xuất, điều khiển Nhà
nước do đặc trưng 1 quyết định.
+ Đặc trưng 3: Các giai cấp khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những sản
phẩm lao động của xã hội, tức là khác nhau về của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được
hưởng do đặc trưng 1 quyết định.
Ba đặc trưng cho chúng ta thấy bản chất vấn đề giai cấp, từ đó có thể rút ra những khẳng
định sau:
+ Các đặc trưng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, đặc biệt quan trọng của vấn đề
giai cấp là đặc trưng thứ nhất. Nó là bản chất của sự hình thành và xung đột giai cấp trong
xã hội.
+ Những hiện tượng giàu nghèo hay địa vị cao thấp chỉ là kết quả chứ không phải nguyên
nhân, chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất cho nên không thể coi đó là tiêu chuẩn
để phân biệt giai cấp.
- Ý nghĩa của định nghĩa:
Định nghĩa giai cấp đã vạch ra bản chất của xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp
đối kháng là do sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Có giá trị to lớn về lý luận và thực tiÔn trong thời đại hiện nay. Nó vạch ra con đường
đúng đắn cho các Đảng Cách mạng trong thời đại ngày nay đi tới xây dựng một xã hội
không có sự áp bức, bóc lột và bất công đó là Chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở để bác bỏ quan
điểm sai lầm, phản động về vấn đề giai cấp.
b. Quan niệm về đấu tranh giai cấp và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội có giai
62
cấp đối kháng
Lê nin định nghĩa đấu tranh giai cấp: “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền,
bị áp bức và lao động, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc
đấu tranh của người vô sản chống những người tư hữu sản hay giai cấp tư sản” (1)
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp:
Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
Giai cấp có lợi ích căn bản đối lập nhau
Nguyên nhân khách quan của mâu thuẫn giai cấp là do mâu thuẫn về mặt lợi ích
Mâu thuẫn giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp:
Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến Cách mạng xã hội. Giải quyết mâu thuẫn
giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một
phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát
triển của toàn bộ xã hội.
Đấu tranh giai cấp không chỉ xoá bỏ các lực lượng phản động, lạc hậu, mà còn cải tạo
ngay giai cấp cách mạng.
Đấu tranh giai cấp làm cho tất cả mọi mặt đời sống xã hội phát triển nhanh chóng.
c. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong điều kiện hiện nay.
Điều kiện mới
- CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tương quan lực lượng thay đổi
- CNTB vẫn còn khả năng phát triển
- Cách mạng KHKT đưa loài người vào thời đại KT tri thức và xã hội thông tin. Mâu
thuẫn đã thay đổi và không dễ nhận biết.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, vào những năm đầu của sự nghiệp đổi mới cũng có những người cho rằng,
cần từ bỏ quan điểm mác-xít về đấu tranh giai cấp, xuất phát từ những cơ sở và những
động cơ khác nhau.
Một số khác, do tiếp cận với chủ nghĩa tư bản một cách không đầy đủ, bị choáng ngợp
trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản, đã đòi chúng ta từ bỏ con đường xã hội
chủ nghĩa để đi theo chủ nghĩa tư bản.
Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp càng trở nên phức tạp trong quá trình phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thực hiện chính sách mở cửa trong quan hệ quốc tế.
Những năm đổi mới đã xuất hiện hai quan điểm sai lệch, trái ngược nhau trong vấn đề
giai cấp và đấu tranh giai cấp
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định "Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về
tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ
63
cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến
đổi to lớn về kinh tế, xã hội".
Từ các hình thức sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân) hình
thành nhiều thành phần kinh tế ( kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) tương
ứng về mặt xã hội, các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cùng tồn tại, trong đó thành
phần cơ bản là giai cấp nông dân, công nhân và đội ngũ trí thức. Có thể khái quát thành 4
đặc điểm chính về giai cấp ở Việt Nam:
Cuộc đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay là đấu tranh chống
khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội ta hiện nay
không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp và do đó không có đấu
tranh giai cấp. Nhưng cũng hết sức sai lầm nếu phân chia các giai cấp thành hai lực lượng
xã hội đối lập.
Để định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Còn khuynh hướng tự phát đi lên
chủ nghĩa tư bản chúng ta phải chủ động, tự giác và tỉnh táo trước những tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường.
Giai cấp công nhân dù lao động ở thành phần kinh tế nào cũng có quyền làm chủ đất
nước. Mâu thuẫn tư bản và công nhân được giải quyết từng bước bằng sự quản lý của Nhà
nước của nhân dân. Như vậy, đấu tranh giai cấp ở đây vẫn là đấu tranh chống khuynh
hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, chứ không phải chống giai cấp tư sản nói chung.
Cần vận dụng quan điểm mác-xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp một cách hết sức sáng
tạo vào hoàn cảnh nước ta. Tránh những khuynh hướng cực đoan sai lầm: quan điểm hữu
khuynh mơ hồ cũng như quan điểm "tả khuynh", giáo điều về giai cấp và đấu tranh giai
cấp.
Đại hội IX khẳng định: "Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng
xã hội, chống áp bức bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái; đấu tranh và làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc" (SĐD, tr 86).
II- Quan hệ giai cấp với dân tộc và nhân loại trong thời đại hiện nay
1. Dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc
a. Khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc
Những hình thức cộng đồng người trong lịch sử
64
Thị tộc: là hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử, gồm có các đặc trưng sau:
Tồn tại trên quan hệ huyết thống do chế độ quần hôn tạo ra. Lúc đầu là chế độ mẫu quyền
sau thay bằng chế độ phụ quyền do sự phát triển của Lực lượng sản xuất.
Bắt đầu có các quan hệ cộng đồng về ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng và văn hoá.
Cơ sở kinh tế là sở hữu về tư liệu sản xuất và tài sản.
Tổ chức xã hội: Lãnh đạo thị tộc là một Hội đồng thị tộc, đứng đầu là Tộc trưởng được
mọi người bầu ra.
Bộ lạc: Là tập hợp dân cư được tạo ra thành từ nhiều Thị tộc do có quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau hợp thành Bộ lạc. Gồm có các đặc trưng:
Có cùng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hoá, tín ngưỡng và cùng chung sống trên một
vùng lãnh thổ. Mặc dù chưa thật sự ổn định nhưng xác lập chủ quyền về mặt lãnh thổ là
đặc trưng mới của Bộ lạc so với Thị tộc.
Cơ sở kinh tế: là chế độ công hữu về ruộng đất và công cụ sản xuất.
Tổ chức xã hội: Lãnh đạo Bộ lạc là Hội đồng các Tộc trưởng. Có một Thủ lĩnh tối cao
nhưng mọi quyền hành là do hội nghị của Hội đồng các Tộc trưởng và Thủ lĩnh quân sự
quyết định.
Bộ tộc: Là một cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều Bộ lạc trên
một vùng lãnh thổ nhất định. Sự xuất hiện của các Bộ tộc đồng thời là sự tan rã của công
xã nguyên thủy. Nó được hình thành cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ thì Bộ tộc được
hình thành với chế độ Phong kiến. Bộ tộc có những đặc trưng sau:
Có tên gọi riêng, lãnh thổ riêng.
Chỉ có yếu tố chung về văn hoá, tâm lý. Trong Bộ tộc còn mang tính địa phương chưa
biến thành văn hoá chung thống nhất của toàn Bộ tộc.
Bộ tộc là một hình thức cộng đồng người được hình thành không theo quan hệ huyết
thống mà dựa trên những mối quan hệ kinh tế, tuy liên hệ đó chưa mạnh mẽ.
Dân tộc:
* Khái niệm: Là cộng đồng xã hội - tộc người ổn định bền vững được thành lập trong lịch
sử phát triển xã hội và lịch sử phát triển các hình thức cộng đồng người. Quan hệ dân tộc
được hình thành từ quan hệ cộng đồng ngôn ngữ, lãnh thổ, sinh hoạt, kinh tế, tâm lý, tính
cách, đời sống văn hoá và là sự kết tinh độc đáo của các quan hệ ấy.
* Các đặc điểm cơ bản của Dân tộc:
- Cộng đồng về lãnh thổ: Mỗi Dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất. Lãnh thổ Dân tộc ổn
định hơn nhiều so với lãnh thổ Bộ tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân
tộc. Không có lãnh thổ thì không có khái niệm Quốc gia, Tổ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bgtriethoc_1649.pdf