Bài giảng Thư viện học đại cương - Nghề: Thư viện

NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA CỦA TÀI LIỆU

GIẢNG DẠY

BÀI GIẢNG MÔN HỌC

Thư viện học đại cương

Mục tiêu môn học:

- Về kiến thức: Giúp học sinh xác định vai trò,

chức năng của thông tin thư mục trong xã hội và thực

hành được hoạt động thông tin thư mục.

- Về kỹ năng: Giúp học sinh nắm được những lý

luận cơ bản của thư mục học; Hiểu được đặc điểm, chức

năng của thông tin thư mục.

- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Có thể tổ

chức hoạt động thông tin thư mục trong các loại thư viện

khác nhau.

Nội dung:

Chương 1: Chức năng nhiệm vụ của thư viện

trong xã hội

1. Khái niệm

Thuật ngữ “thư viện” xuất phát từ chữ Hy Lạp

bibliotheca. “Biblio” nghĩa là sách, “theca” nghĩa là nơi

bảo quản. Hiểu theo nghĩa đen, thư viện là nơi bảo quản

sách, là nơi tàng trữ sách báo. Người Trung Hoa cổ cho

rằng “thư ” là sách, “viện” là nơi tàng trữ. Trong Từ điển

tiếng Việt, thư viện được định nghĩa là “nơi tàng trữ, giữ10

gìn sách báo, tài liệu và tổ chức cho bạn đọc sử dụng”1;

hoặc “ thư viện là nơi công cộng chứa sách xếp theo một

thứ tự nhát định để tiện cho người ta đến đọc và tra

cứu”2. Hiểu theo nghĩa bóng, thư viện được coi là “kho

tàng chứa tất cả của cải tinh thần của loài người”, “là

trường học tư tưởng của con người, dạy cho Con người

có năng lực lao động, là nơi tẩy sạch sự dốt nát”, “ là trí

nhớ không hủy diệt nổi của loài người ”3.

Trong thời đại mới, thư viện vẫn luôn luôn được

coi là tòa lâu đài trí tuệ của nhân loại, nơi lưu giữ và bảo

tồn những giá trị văn hóa của loài người, là một bộ phận

của nền văn hóa và mang thêm sắc thái mới - là trung

tâm thông tin, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong

hệ thống thông tin - tư liệu của các nước, là nơi thu thập

và thỏa mãn nhu cậu thông tin cho quảng đại quần chúng.

Tổ chức Giằo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

(UNESCO):định nghĩa: “Thư viện, không phụ thuộc vào

tên gọi cửa nó, là bất cứ bộ SƯU tập có tổ chức nào của

sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ

họa, nghe- nhìn, và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ

chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích

thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục hoặc giải trí”4.

pdf126 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Thư viện học đại cương - Nghề: Thư viện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện công cộng đầu tiên của Ấn Độ mà còn là tổ chức đầu tiên như vậy bên ngoài châu Âu. Tuy nhiên, đã có một mạng lưới cung cấp thư viện trên cơ sở tư nhân hoặc tổ chức. Các thư viện đăng ký, cả tư nhân và thương mại, đã cung cấp cho tầng lớp trung lưu đến thượng lưu với nhiều loại sách với mức phí vừa phải. Sự gia tăng của văn học thế tục tại thời điểm này đã khuyến khích sự lan rộng của các thư viện cho vay, đặc biệt là các thư viện đăng ký thương mại. Thư viện đăng ký thương mại bắt đầu khi các nhà sách bắt đầu thuê thêm các bản sao sách vào giữa thế kỷ 18. Steven Fischer ước tính rằng vào năm 1790, có 209 "khoảng sáu trăm thư viện cho thuê và cho vay, với lượng khách hàng khoảng năm mươi ngàn".[19] Giữa thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 18 chứng kiến một dịch bệnh ảo của việc đọc của nữ giới khi tiểu thuyết ngày càng trở nên phổ biến.[20] Tiểu thuyết, trong khi bị xã hội coi thường, là cực kỳ phổ biến. Ở Anh, có nhiều người than thở về "những cuốn sách tục tĩu và bậy bạ" và sự phản đối của họ đối với các thư viện cho mượn sách, vẫn còn tồn tại trong thế kỷ 19.[21] Tuy nhiên, nhiều cơ sở phải lưu hành nhiều lần số lượng tiểu thuyết như bất kỳ thể loại nào khác.[22] Năm 1797, Thomas Wilson đã viết trong Sử dụng các thư viện lưu hành: "Hãy xem xét, để một thư viện lưu hành thành công, bộ sưu tập sách phải chứa 70% sách hư cấu". Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm tổng thể của tiểu thuyết chủ yếu phụ thuộc vào chủ sở hữu của thư viện lưu hành. Trong khi một số thư viện lưu hành gần như chứa hoàn toàn tiểu thuyết, những thư viện khác có ít hơn 10% bộ sưu tập tổng thể của họ dưới dạng tiểu thuyết.[23] Khởi đầu trung bình quốc gia của thế kỷ 20 có tỷ lệ tiểu thuyết chiếm khoảng 20% tổng số sách.[24] Tiểu thuyết đa dạng từ các loại sách khác theo nhiều cách. Họ được đọc chủ yếu để thưởng thức thay vì để nghiên cứu. Họ không cung cấp kiến thức hàn lâm hoặc 210 hướng dẫn tâm linh; do đó chúng được đọc nhanh và ít hơn rất nhiều lần so với những cuốn sách khác. Đây là những cuốn sách hoàn hảo cho các thư viện thuê bao thương mại để cho khách mượn. Vì sách được đọc để thưởng thức thuần túy hơn là cho công việc học thuật, nên sách cần phải trở nên rẻ hơn và nhỏ hơn. Các ấn bản duodecimo nhỏ của sách được ưa thích hơn các phiên bản folio lớn. Các phiên bản Folio đã được đọc tại bàn làm việc, trong khi các phiên bản duodecimo nhỏ có thể dễ dàng đọc như bìa mềm ngày nay. Nhà báo người Pháp, Louis-Sébastien Mercier đã viết rằng các cuốn sách cũng được tách thành nhiều phần để độc giả có thể thuê một phần của cuốn sách trong vài giờ thay vì cả ngày.[17] Điều này cho phép nhiều độc giả có thể có quyền truy cập vào cùng một tác phẩm cùng một lúc, làm cho nó có lợi hơn cho các thư viện lưu hành. Giống như bìa mềm ngày nay, nhiều tiểu thuyết trong các thư viện lưu hành không bị ràng buộc. Vào thời kỳ này, nhiều người đã chọn đóng sách bằng da. Nhiều thư viện lưu hành đã bỏ qua quá trình này. Thư viện lưu hành không phải là trong kinh doanh bảo quản sách; chủ sở hữu của họ muốn cho mượn sách nhiều lần nhất có thể. Các thư viện lưu hành đã mở ra một cách đọc hoàn toàn mới. Đọc 211 sách không còn đơn giản là một sự theo đuổi học thuật hay một nỗ lực để có được sự hướng dẫn tâm linh. Đọc sách trở thành một hoạt động xã hội. Nhiều thư viện lưu hành đã được gắn vào các cửa hàng xay xát hoặc nông nghiệp. Thư viện phục vụ để làm nơi trao đổi trong xã hội và gặp gỡ bạn bè như các cửa hàng cà phê ngày hôm nay.[25] Biblioteka Załuskich, được xây dựng tại Warsaw vào giữa thế kỷ 18 Một yếu tố khác trong sự phát triển của các thư viện thuê bao là chi phí sách ngày càng tăng. Trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ, đặc biệt, giá thực tế đã tăng gấp đôi, do đó, một tác phẩm tứ tấu có giá một guinea, một shtavo 10 shilling hoặc 12 shilling, và một duodecimo có giá 4 shilling trên mỗi tập. Ngoài ra, giá cả, sách rất khó mua ngoài Luân Đôn, vì các nhà sách địa phương không đủ khả năng để mang các cổ phiếu lớn.[26] Các thư viện thương mại, vì chúng thường được 212 liên kết với các nhà bán sách và cũng vì họ có số lượng khách hàng quen nhiều hơn nên có thể tích lũy số lượng sách lớn hơn. Thư viện công cộng Hoa Kỳ được cho là có một bộ sưu tập khoảng 52.000 tập - nhiều gấp đôi so với bất kỳ thư viện đăng ký riêng nào ở nước này trong thời kỳ đó.[27] Các thư viện này, vì chúng hoạt động như một doanh nghiệp, cũng cho mượn sách cho những người không đăng ký trên hệ thống.[28] Bất chấp sự tồn tại của các thư viện đăng ký này, chúng chỉ có thể truy cập được mặc dù ai có thể trả phí và cho những người có thời gian đọc vào ban ngày. Như James Van Horn Melton đã tuyên bố, một người không nên nói quá về mức độ mà các thư viện cho vay 'dân chủ hóa' khi đọc sách kể từ khi họ có lẽ ít quan trọng hơn trong việc tạo độc giả mới hơn là cho phép những người đã đọc đọc nhiều hơn. " Đối với nhiều người, các thư viện này, mặc dù dễ tiếp cận hơn các thư viện như Thư viện Anh, phần lớn vẫn là một tổ chức dành cho tầng lớp trung lưu và thượng lư 1.3. Quan điểm của các nước trên thế giới về thư viện công cộng 1.4. Tuyên ngôn của UNESCO về thư viện công cộng 213 Tuyên ngôn của UNESCO về thư viện năm 1994 có đoạn viết: “Thư viện công cộng mở ra cơ hội cho người dân ở cơ sở tiếp cận tới tri thức, đảm bảo cho họ học tập liên tục và tự quyết định sự phát triển văn hoá của mình, của nhóm cộng đồng”. 2. Những đặc điểm của thư viện công cộng Việt Nam 2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về thư viện công cộng. Quản lý nhà nước về thư viện (TV) là một phạm trù rộng lớn, có tầm ảnh hưởng vĩ mô đối với một lĩnh vực, một ngành ở một quốc gia, dân tộc. Trong phạm vi bài viết, tác giả khái quát một số nội dung lớn trong quản lý nhà nước về TV ở Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây xoay quanh 3 vấn đề chính: Chủ thể quản lý nhà nước về TV; Thực trạng quản lý nhà nước về TV gần 20 năm qua; Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về TV. 1. Chủ thể quản lý nhà nước về thư viện Chúng ta biết rằng, từ nhiều năm nay Chính phủ đã giao cho Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - VHTTDL) là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hoạt động TV trên toàn lãnh thổ Việt Nam (điều này đã được ghi rõ trong Pháp 214 lệnh TV và các Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ VHTTDL). Để thực hiện tốt vai trò, chức năng quan trọng này, hai thập kỷ qua, nhằm thể chế hoá những quan điểm của Đảng (qua các kỳ Đại hội Đảng) về chính sách văn hoá nói chung, về TV nói riêng, Bộ VHTTDL đã có nhiều cố gắng, nỗ lực tham mưu cho Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp quy (VBPQ) quan trọng về lĩnh vực TV. Hệ thống VBPQ (nói chung là cơ chế - chính sách của Nhà nước) trong lĩnh vực TV đã dần được hoàn thiện. Đặc biệt năm 2000, Pháp lệnh TV được ban hành (cùng với các Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định của Bộ VHTTDL và các Bộ, ngành Trung ương (TW) được ban hành (đến thời điểm hiện tại năm 2017, có gần 30 VPPQ về lĩnh vực TV hoặc liên quan đến quản lý nhà nước về công tác TV), trong đó: - 01 văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành (ngày 28/12/2000): Pháp lệnh TV. - 04 Văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 06/8/2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh TV; Nghị định số 02/2009/NĐ-CP ngày 06/01/ 2009 của Chính phủ Quy định về tổ chức và hoạt động của TV 215 tư nhân có phục vụ cộng đồng, Quyết định số 184/2014/QĐ-TTg ngày 24/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Ngày Sách Việt Nam; Quyết định số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 phê duyệt Đề án phát triển văn hoá đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và một số văn bản khác của chính phủ. - Văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ VHTTDL gồm 5 Quyết định và 4 Thông tư. - Văn bản của các Bộ, ngành khác ban hành có liên quan đến TV, gồm 15 Thông tư và các Quyết định, Chương trình phối hợp liên ngành (trong đó liên quan đến TV hệ thống giáo dục và đào tạo, có 01 Quyết định số 13/2008/QĐ- BVHTTDL của Bộ VHTTDL ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của TV trường Đại học; 01 Quyết định số 01/2003/QĐ/BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn TV trường phổ thông; 01 Chương trình Phối hợp công tác số 122/CTPH-BVHTTDL-BGDĐT ngày 15/01/2016 giữa Bộ VHTTDL và Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc “Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về TV và đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, học tập suốt đời trong các TV, giai đoạn 2016 - 2020” và 04 216 Thông tư liên tịch của các Bộ có liên quan đến công tác TV. Bên cạnh đó, hệ thống VBPQ về TV do các địa phương ban hành (chủ yếu là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc TW ban hành) về công tác TV/ liên quan đến TV khá nhiều: trên cơ sở các văn bản của TW, chính quyền địa phương các cấp đã ban hành (theo thẩm quyền) 184 văn bản quy phạm pháp luật triển khai thực hiện các quy định, chính sách của Nhà nước, để chỉ đạo hoạt động TV ở địa phương; 14 quyết định phê duyệt quy hoạch, 33 quyết định phê duyệt đề án phát triển ngành TV ở địa phương. Ngoài ra, các quyết định về quy chế tổ chức, hoạt động của TV cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đang đi vào cuộc sống, tạo nên hành lang pháp lý khá thuận lợi cho các TV phát triển. Có thể nói, Bộ VHTTDL với chức năng tham mưu cho Chính phủ thực hiện vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực TV, bằng việc xây dựng cơ chế, chính sách và ban hành các VBPQ quan trọng (của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành ở TW) với hệ thống VBPQ nêu trên (cả ở TW và địa phương), đã được triển khai vào cuộc sống, thực sự đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối đồng bộ, thống nhất và khá thuận lợi cho hoạt động của các hệ thống 217 TV Việt Nam phát triển. Các quy định hiện hành nhìn chung khá phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế, tạo nền móng cho hoạt động TV Việt Nam có khả năng hội nhập với hoạt động TV trong khu vực và thế giới, đồng thời là công cụ quan trọng để tăng cường công tác quản lý nhà nước về TV trên lãnh thổ Việt Nam. 2. Thực trạng quản lý nhà nước về thư viện gần 20 năm qua Như trên đã nói, hệ thống VBPQ về lĩnh vực TV ở nước ta (do các cơ quan quản lý nhà nước ở TW ban hành hay do chính quyền các cấp địa phương ban hành), đều nhằm mục đích chung là tạo điều kiện cho sự phát triển của các hệ thống TV ở Việt Nam. Nhìn trên bình diện cả nước, khoảng hai thập kỷ trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, sự quan tâm đầu tư ngày càng tăng của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hoá nói chung, lĩnh vực TV nói riêng, hoạt động TV Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, góp phần đắc lực vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước. Cho đến nay ở nước ta đã hình thành 2 hai loại hình TV cơ bản: TV công cộng với gần 18.000 TV (Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 218 TV cấp tỉnh, trên 626 TV cấp huyện và hàng nghìn TV/ tủ sách cấp xã và cơ sở); TV chuyên ngành với gần 400 TV đại học và cao đẳng, 24.746 TV các trường phổ thông, gần 80 TV các bộ, ngành, các viện, trung tâm nghiên cứu...). Mặt khác, với chủ trương xã hội hoá trong lĩnh vực văn hoá, bên cạnh các TV nhà nước, đã xuất hiện mô hình TV tư nhân, TV tủ sách dòng họ, gia đình, đã tham gia tích cực vào việc phục vụ đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức của cộng đồng, của toàn xã hội. Việc đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về một lĩnh vực nào đó luôn là vấn đề khó khăn, phức tạp, đặc biệt lĩnh vực TV ở Việt Nam (với những hệ thống/ diện phủ sóng vừa nhiều, vừa rộng, lại có cả 4 cấp hành chính từ TW đến cơ sở). Vì vậy, tác giả chọn cách đánh giá khái quát hiệu quả quản lý nhà nước về TV ở nước ta khoảng 20 năm trở lại đây theo một số tiêu chí chủ yếu sau: 2.1. Về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và hiện đại hoá cho hoạt động thư viện Đây là chỉ số quan trọng và đầu tiên khi nói về hiệu quả quản lý nhà nước về công tác TV. Bởi lẽ một trong 4 yếu tố cấu thành TV là trụ sở, trang thiết bị TV. 219 Gần hai thập kỷ qua, nhất là từ khi có Pháp lệnh TV (VBPQ có tính pháp lý cao nhất về lĩnh vực TV ở Việt Nam hiện nay), cùng với các Nghị định của Chính phủ, các VBPQ quan trọng khác của TW và địa phương đã đem lại những kết quả to lớn, rất ấn tượng cho hoạt động TV trong cả nước. Minh chứng là đã có nhiều nhà/ công trình TV được đầu tư xây dựng mới. Rõ ràng với những chính sách mới về TV được ban hành (Pháp lệnh TV) và nhiều VBPQ quan trọng của TW đã “đánh thức tư duy” của nhiều cán bộ lãnh đạo từ TW đến địa phương, để từ đó thông qua Hội đồng nhân dân các tỉnh/ thành phố, ngân sách chi cho xây dựng và đầu tư cho TV được ưu tiên. Bằng chứng là: các TV ở TW, các TV tỉnh, thành, TV các trường đại học, TV Bộ, ngành... đã được sự quan tâm và đầu tư về cơ sở vật chất. Ví dụ: chỉ riêng hệ thống TV công cộng Việt Nam, từ năm 2000 đến nay, đã xây dựng mới được khoảng trên 50% TV tỉnh, thành (bình quân mỗi TV từ 30-40 tỷ đồng, như: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Dương, Bạc Liêu, Cà Mau; có TV được xây dựng từ 60-80 tỷ như: Hải Dương, Nghệ An, Đồng Nai, Đồng Tháp; đặc biệt có TV được xây trên 100 tỷ đồng như: Thanh Hoá, Bà Rịa - Vũng Tàu; TV tỉnh Quảng Ninh được xây dựng khoảng 400 tỷ đồng. Nhiều TV và trung 220 tâm thông tin - TV trường đại học lớn đã được xây dựng mới với kinh phí hàng chục tỷ đồng như: TV trường Đại học Bách khoa Hà Nội (200 tỷ đồng); Trung tâm Thông tin - TV, trường Đại học Giao thông Vận tải (25 tỷ đồng); Trung tâm Thông tin - TV, trường Đại học Thương mại (10 tỷ đồng); đặc biệt 04 Trung tâm Học liệu ở các tỉnh, thành: Cần Thơ, Thái Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng (chủ yếu xây bằng nguồn vốn của tổ chức nước ngoài, trị giá mỗi trung tâm trên/ dưới 100 tỷ đồng) và một số TV trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại (hàng chục tỷ đồng). Bên cạnh đó, có nhiều đề án lớn của TW và các địa phương đầu tư cho hiện đại hoá TV như: điện tử hoá hoạt động TV, cấp trang thiết bị TV hiện đại với nhiều tỷ đồng. Ví dụ, TV tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (đầu tư 30 tỷ), TV tỉnh Gia Lai (hơn 3 tỷ), TV tỉnh Đắk Lắk (3,5 tỷ), TV tỉnh Sơn La (1,8 tỷ), TV tỉnh Lạng Sơn (1,5 tỷ), TV tỉnh Bình Phước (2,2 tỷ)... Thêm vào bức tranh chung đó, ở một số tỉnh có điều kiện như: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, chính quyền địa phương cũng đã có sự ưu tiên cho xây dựng và đầu tư hiện đại hoá TV. Ở một số tỉnh này, nhiều TV cấp huyện được xây mới (có TV huyện được 221 xây trên 10 tỷ đồng, được đầu tư hàng chục máy tính), nối mạng với TV tỉnh, TV huyện..., phục vụ cho nhu cầu bạn đọc rất hiệu quả. 2.2. Về tăng cường kinh phí, vốn sách, báo, tài liệu cho thư viện Song song với việc đầu tư xây dựng trụ sở các TV trong cả nước, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TV cũng đã được biểu hiện rõ trong việc tăng kinh phí và tăng vốn sách, báo, tài liệu cho TV. Theo thống kê các TV tỉnh/ thành gửi về Vụ TV (Bộ VHTTDL) hàng năm, kinh phí chi cho hoạt động TV ở nhiều nơi, năm sau cao hơn năm trước (bình quân từ 6 đến 10%). Một số TV tỉnh, thành phố, các trường đại học lớn đã có sự ưu tiên kinh phí để mua các “bộ sưu tập số”, hoặc ưu tiên ngân sách để “hồi cố” sách, báo, tài liệu TV, nhằm từng bước xây dựng “CSDL thư mục”; “CSDL toàn văn” trong TV. Bên cạnh đó, phải kể tới Chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ (thông qua Bộ VHTTDL) từ năm 1995-2015, mỗi năm trị giá hàng chục tỷ đồng cho 63 TV tỉnh, gần 400 TV huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới... Rõ ràng, với việc tăng ngân sách cho TV, vốn tài liệu, sách, báo (cả tài liệu giấy và tài liệu điện tử) trong nhiều TV tỉnh, TV các trường đại học ở 222 Việt Nam đã tăng lên đáng kể, làm phong phú hơn kho tài liệu TV. 2.3. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ người làm thư viện Nhìn chung, nguồn nhân lực (người làm TV) cho hệ thống TV cả nước đã được chú trọng hơn so với trước. Nhằm đáp ứng yêu cầu về hoạt động thực tiễn phục vụ văn hoá đọc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (nhất là ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước xây dựng TV điện tử, TV số), nhiều TV đã quan tâm và nâng cao chất lượng đội ngũ người làm TV, trong đó có việc không ngừng bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, đặc biệt sử dụng phần mềm TV hiện đại. Được biết hàng năm, Bộ VHTTDL đã tổ chức các lớp tập huấn cho người làm TV tỉnh, TV huyện (với số lượng hàng trăm người/ năm). Bộ Quốc phòng cũng thường xuyên tổ chức tập huấn cho người làm TV trong quân đội. Nhiều người làm TV được cử đi đào tạo ở nước ngoài hoặc đào tạo tại các trường đại học trong nước (thạc sỹ, tiến sỹ). Ngoài ra, các tổ chức quốc tế như: Quỹ Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ), Quỹ Force (Hà Lan), Quỹ Sida (Thuỵ Điển) và nhiều tổ chức nước ngoài đã hỗ trợ đào tạo cho người làm TV ở Việt Nam. 223 2.4. Về đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực thư viện Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ VHTTDL và các Bộ, Ban, ngành TW, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức xã hội, công tác xã hội hoá trong lĩnh vực TV đã đạt được nhiều thành tựu. Hệ thống VBPQ về TV đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác xã hội hoá, nhờ đó ngành TV từ TW tới địa phương đã huy động được các nguồn lực to lớn, hỗ trợ, quyên góp về vật chất, tinh thần cho sự phát triển TV Việt Nam. Bên cạnh hệ thống TV nhà nước (TV công lập), các TV dân lập được hình thành và phát triển, như: TV tư nhân có phục vụ cộng đồng (hiện nay có gần 60 TV), Tủ sách dòng họ, chương trình “Sách hoá nông thôn”, Tủ sách gia đình (do ông Nguyễn Quang Thạch khởi xướng, đến nay có khoảng gần 350 đơn vị). Bên cạnh đó, phải kể đến sự tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước về sách, báo, trang thiết bị cho hệ thống TV Việt Nam. Hàng năm, Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 TV tỉnh, các TV chuyên ngành, đa ngành đã nhận được hàng chục nghìn bản sách do Quỹ Châu Á tặng (trị giá hàng tỷ đồng) và thông qua Ngày Sách Việt Nam (21/4), nhiều sách, báo, trang thiết bị TV của các tổ chức quốc tế, các đại sứ 224 quán, lãnh sự quán các nước trên thế giới hỗ trợ cho các TV ở Việt Nam. Hàng năm, Cục Xuất bản, Vụ Thư viện, Thư viện Quốc gia Việt Nam, các nhà xuất bản lớn ở TW (Chính trị Quốc gia, Quân đội nhân dân, Phụ nữ, Kim Đồng, Nhà xuất bản Trẻ) đã hỗ trợ hàng vạn cuốn sách, trị giá hàng tỷ đồng cho các TV cơ sở. Đặc biệt từ năm 2013-2015, Nhà xuất bản Kim Đồng triển khai dự án tặng 01 triệu cuốn sách cho trường học vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (trị giá 2 tỷ đồng). Đáng chú ý là, từ năm 2011 đến 2017, Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam”, do Quỹ Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ) tài trợ, tổng trị giá gần 40 triệu USD Mỹ, đã cấp khoảng 11.500 máy tính cho 40/63 tỉnh ở Việt Nam, Ngoài ra, từ năm 2005 đến 2013, các tổ chức phi chính phủ của các nước: Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Thuỵ Điển và Ngân hàng thế giới (WB) đã hỗ trợ, tài trợ, đầu tư cho hệ thống TV các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam với các dự án xây dựng Trung tâm Học liệu ở các tỉnh, thành: Thái Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ (hoặc các dự án TV điện tử/ TV số, các lớp tập huấn người làm TV), trị giá các hạng 225 mục tài trợ/ hỗ trợ nói trên từ vài tỷ đến vài chục tỷ đồng). Đặc biệt, để huy động mọi nguồn lực cho TV Việt Nam phát triển, 10 năm trở lại đây, đã có 8 TV tỉnh/ thành (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Yên Bái, Sơn La, Nghệ An, Quảng Nam, Gia Lai và An Giang) được tài trợ xe ôtô TV lưu động (do các tổ chức nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam tài trợ), mỗi chiếc xe từ 01 tỷ đến 1,5 tỷ đồng. 2.2. Những đặc điểm của mạng lưới thư viện công cộng Việt Nam 3. Tổ chức mạng lưới thư viện công cộng ở Việt Nam 3.1. Hệ thống quản lý mạng lưới thư viện công cộng ở Việt Nam 1. Thứ viện quốc gia Việt Nam Thư viện quốc gia Việt Nam là thư viện khoa học tổng hợp lơn nhất của nước ta, là thư viện đứng đầu hệ thông thư viện công cộng nhà nước, là thư viện tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc, là trung tâm giao lưu các mối quan hệ giữa các hệ thống thư viện trong nước và quan hệ quốc tế. Lịch sử hình thành và hoạt động của thư viện quốc gia Việt Nam 226 * Thời thuộc Pháp Ngày 29/11/1917, Chính phủ Pháp ra Nghị định thành lập Nha lưu trữ và Thư viện trung ương của Đông Dương tại Hà Nội, coi đây là một công trình “khai hóa văn minh” cho dân bản xứ. Thực chất là tổ chức một cơ quan văn hóa nhằm phục vụ đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa của Chính phủ Pháp đối với các nước thuộc địa. Năm 1935 thư viện đổi tên thành thư viện Pierre Pasquieur (tên của toàn quyền Đông Dương iúc đó). Năm 1947 lại lấy tên là Thư viện trung ương. Thư viện trung ương Đông Dương cố nhiệm vụ: - Tàng trữ sách báo tài liệu do các cơ quan chính trị, kinh tế, văn hóa cửa Pháp ở Đông Dương nghiên cứu biên soạn; - Kiểm soát việc nộp lưu chiểu xuất bản' phẩm ở Đông Dương để gửi sang thư viện quốc gia Paris mỗi thứ 01 bản; - Tổ chức phục vụ người Pháp làm việc ở Đông Dương và một số trí thức người Việt; í - Biên soạn thư mục phục Vụ cho việc thống kê đăng ký và mục đích khai thác thuộc địa. Cơ cấu thư viện gồm 7 phòng: phòng 227 đọc sách, phòng mượn sách, phòng sách nhi đồng, phòng báo chí, phòng bản đồ, phòng thư tịch, phòng pháp chế. Ngoài ra cố bộ phận quản lý bản nộp lưu chiểu và xưởng đống bìa sách riêng. Thư viện chính thức hoạt động vào 01/09/1919 do Paul Boudet (là phó quản đốc thư viện và lưu trữ ở Rouen sang làm giám đốc). Vốn sách ban đầu là 5000 bản tiếng Pháp. Từ năm 1921 bắt đầu bổ sung sách tiếng Việt nhưng tốc độ bổ sung rât chậm. Đến năm 1939 kho sách thư viện có 92 000 bản, trong đó đại bộ phận là tiếng Pháp. Sách tiếng Việt có một số tác phẩm Hán - Nôm, chữ Quốc ngữ có giá trị, còn phần lớn là những cuốn sách mỏng, không cồ giá trị cao, thường là sách giáo khoa, những tập văn thơ, những câu chuyện kể, sách dịch, tái bần truyện “tàu”, sách tôn giáo ( sách phúc âm truyền đạo của Thiên chúa giáo và Phật giáo). Nội dung sách tiếng Pháp đa số thuộc về khoa học xã hội: sách chính trị, triết học, tác phẩm văn học lãng mạn, lịch sử, từ điển, bách khoa toàn thư.... Sách khoa học tự nhiên rất ít, sách kỹ thuật tập trung vào các ngẳnh khai thác mỏ, xây dựng cầu cống, đường sá, các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê .... 228 Người đọc của thư viện thời Pháp thuộc chủ yếu là người Pháp và một số trí thức người Việt do Pháp đào tạo. số ghế trong phòng đọc gồm 120 chỗ (suốt từ 1919 cho đến 1954). Hình thức và phương pháp phục vụ người đọc nghèo nàn. Người Pháp đảm nhiệm các chức ưách quan trọng trong thư viện, có một số người Việt làm ưong thư viện như Phạm Đình Diễm, Trần Văn Kha, Nguyễn Văn Xước, Ngô Đình Nhu. Năm í 1938 Ngô Đình Nhu được chính phủ Pháp bổ nhiệm làm phó giám đốc thư viện. Ngân sách chính phủ Pháp dành cho công tác bổ sung và xây dựng cở sở vật chất của thư viện rất ít nên số lượng sách tăng chậm, ưang thiết bị thiếu thốn. Kỹ thuật thư viện chưa tốt, qui tắc mô tả chưa thống nhất, thư viện chỉ có mục lục chữ cái và mục lục chủ dề, không có mục lục phân loại, công tác thư mục chưa phát triển mạnh. Cuối năm 1954 kho sách của thư viện trung ương Đông Dương có 180 000 bản. Trước khi rút khỏi Hà Nội, người Pháp mang đi 800 hòm tài liệu quí, do vậy khi chính quyền nhân dân tiếp quản thư viện số lượng sách còn lại (khoảng trên 67 000 bản) không còn giá trị cao. * Thời kỳ từ 1955 đến nay 229 Năm 1957 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Thư viện quốc gia Việt Nam. Trong quá trình phát triển của mình, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của thư viện có sự thay đổi tùy thuộc vào các qui định frong các văn bản pháp qui. Ví dụ: Quyết định 401- Ttg của Thủ tướng chính phủ ngày 6/10/1976, Quyết định số 579 TC-QĐ ngày 17/03/1997 của Bộ Văn hóa Thông tin, Pháp lệnh thư viện ngày 28/12/2000). Theo Quyết định số 579 TC-QĐ ngày 17/03/1997 của Bộ Văn hóa Thống tin quy định về “chức năng, ntriệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Thư viện quốc gia Việt Nam”, Thưviện quốc gia có các nhiệm vụ sau: 1. Thu nhện xuất bản phẩm ưong nước theo chế độ nộp lưu chiểu, biên soạn và xuất bản thư mục quốc gia; 2. Thu nhận luận án tiến sĩ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_giang_thu_vien_hoc_dai_cuong_nghe_thu_vien.pdf
Tài liệu liên quan