NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA CỦA TÀI LIỆU
GIẢNG DẠY
BÀI GIẢNG MÔN HỌC
Thư viện học đại cương
Mục tiêu môn học:
- Về kiến thức: Giúp học sinh xác định vai trò,
chức năng của thông tin thư mục trong xã hội và thực
hành được hoạt động thông tin thư mục.
- Về kỹ năng: Giúp học sinh nắm được những lý
luận cơ bản của thư mục học; Hiểu được đặc điểm, chức
năng của thông tin thư mục.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Có thể tổ
chức hoạt động thông tin thư mục trong các loại thư viện
khác nhau.
Nội dung:
Chương 1: Chức năng nhiệm vụ của thư viện
trong xã hội
1. Khái niệm
Thuật ngữ “thư viện” xuất phát từ chữ Hy Lạp
bibliotheca. “Biblio” nghĩa là sách, “theca” nghĩa là nơi
bảo quản. Hiểu theo nghĩa đen, thư viện là nơi bảo quản
sách, là nơi tàng trữ sách báo. Người Trung Hoa cổ cho
rằng “thư ” là sách, “viện” là nơi tàng trữ. Trong Từ điển
tiếng Việt, thư viện được định nghĩa là “nơi tàng trữ, giữ10
gìn sách báo, tài liệu và tổ chức cho bạn đọc sử dụng”1;
hoặc “ thư viện là nơi công cộng chứa sách xếp theo một
thứ tự nhát định để tiện cho người ta đến đọc và tra
cứu”2. Hiểu theo nghĩa bóng, thư viện được coi là “kho
tàng chứa tất cả của cải tinh thần của loài người”, “là
trường học tư tưởng của con người, dạy cho Con người
có năng lực lao động, là nơi tẩy sạch sự dốt nát”, “ là trí
nhớ không hủy diệt nổi của loài người ”3.
Trong thời đại mới, thư viện vẫn luôn luôn được
coi là tòa lâu đài trí tuệ của nhân loại, nơi lưu giữ và bảo
tồn những giá trị văn hóa của loài người, là một bộ phận
của nền văn hóa và mang thêm sắc thái mới - là trung
tâm thông tin, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
hệ thống thông tin - tư liệu của các nước, là nơi thu thập
và thỏa mãn nhu cậu thông tin cho quảng đại quần chúng.
Tổ chức Giằo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO):định nghĩa: “Thư viện, không phụ thuộc vào
tên gọi cửa nó, là bất cứ bộ SƯU tập có tổ chức nào của
sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ
họa, nghe- nhìn, và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ
chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích
thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục hoặc giải trí”4.
126 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Thư viện học đại cương - Nghề: Thư viện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện công cộng đầu tiên của Ấn Độ mà còn là
tổ chức đầu tiên như vậy bên ngoài châu Âu.
Tuy nhiên, đã có một mạng lưới cung cấp thư
viện trên cơ sở tư nhân hoặc tổ chức. Các thư
viện đăng ký, cả tư nhân và thương mại, đã
cung cấp cho tầng lớp trung lưu đến thượng
lưu với nhiều loại sách với mức phí vừa phải.
Sự gia tăng của văn học thế tục tại thời
điểm này đã khuyến khích sự lan rộng của các
thư viện cho vay, đặc biệt là các thư viện đăng
ký thương mại. Thư viện đăng ký thương mại
bắt đầu khi các nhà sách bắt đầu thuê thêm
các bản sao sách vào giữa thế kỷ 18. Steven
Fischer ước tính rằng vào năm 1790, có
209
"khoảng sáu trăm thư viện cho thuê và cho
vay, với lượng khách hàng khoảng năm mươi
ngàn".[19] Giữa thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 18
chứng kiến một dịch bệnh ảo của việc đọc của
nữ giới khi tiểu thuyết ngày càng trở nên phổ
biến.[20] Tiểu thuyết, trong khi bị xã hội coi
thường, là cực kỳ phổ biến. Ở Anh, có nhiều
người than thở về "những cuốn sách tục tĩu và
bậy bạ" và sự phản đối của họ đối với các thư
viện cho mượn sách, vẫn còn tồn tại trong thế
kỷ 19.[21] Tuy nhiên, nhiều cơ sở phải lưu
hành nhiều lần số lượng tiểu thuyết như bất kỳ
thể loại nào khác.[22]
Năm 1797, Thomas Wilson đã viết
trong Sử dụng các thư viện lưu hành: "Hãy
xem xét, để một thư viện lưu hành thành công,
bộ sưu tập sách phải chứa 70% sách hư cấu".
Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm tổng thể của tiểu
thuyết chủ yếu phụ thuộc vào chủ sở hữu của
thư viện lưu hành. Trong khi một số thư viện
lưu hành gần như chứa hoàn toàn tiểu thuyết,
những thư viện khác có ít hơn 10% bộ sưu tập
tổng thể của họ dưới dạng tiểu thuyết.[23] Khởi
đầu trung bình quốc gia của thế kỷ 20 có tỷ lệ
tiểu thuyết chiếm khoảng 20% tổng số
sách.[24] Tiểu thuyết đa dạng từ các loại sách
khác theo nhiều cách. Họ được đọc chủ yếu
để thưởng thức thay vì để nghiên cứu. Họ
không cung cấp kiến thức hàn lâm hoặc
210
hướng dẫn tâm linh; do đó chúng được đọc
nhanh và ít hơn rất nhiều lần so với những
cuốn sách khác. Đây là những cuốn sách hoàn
hảo cho các thư viện thuê bao thương mại để
cho khách mượn. Vì sách được đọc để thưởng
thức thuần túy hơn là cho công việc học thuật,
nên sách cần phải trở nên rẻ hơn và nhỏ hơn.
Các ấn bản duodecimo nhỏ của sách được ưa
thích hơn các phiên bản folio lớn. Các phiên
bản Folio đã được đọc tại bàn làm việc, trong
khi các phiên bản duodecimo nhỏ có thể dễ
dàng đọc như bìa mềm ngày nay. Nhà báo
người Pháp, Louis-Sébastien Mercier đã viết
rằng các cuốn sách cũng được tách thành
nhiều phần để độc giả có thể thuê một phần
của cuốn sách trong vài giờ thay vì cả
ngày.[17] Điều này cho phép nhiều độc giả có
thể có quyền truy cập vào cùng một tác phẩm
cùng một lúc, làm cho nó có lợi hơn cho các
thư viện lưu hành.
Giống như bìa mềm ngày nay, nhiều
tiểu thuyết trong các thư viện lưu hành không
bị ràng buộc. Vào thời kỳ này, nhiều người đã
chọn đóng sách bằng da. Nhiều thư viện lưu
hành đã bỏ qua quá trình này. Thư viện lưu
hành không phải là trong kinh doanh bảo quản
sách; chủ sở hữu của họ muốn cho mượn sách
nhiều lần nhất có thể. Các thư viện lưu hành
đã mở ra một cách đọc hoàn toàn mới. Đọc
211
sách không còn đơn giản là một sự theo đuổi
học thuật hay một nỗ lực để có được sự hướng
dẫn tâm linh. Đọc sách trở thành một hoạt
động xã hội. Nhiều thư viện lưu hành đã được
gắn vào các cửa hàng xay xát hoặc nông
nghiệp. Thư viện phục vụ để làm nơi trao đổi
trong xã hội và gặp gỡ bạn bè như các cửa
hàng cà phê ngày hôm nay.[25]
Biblioteka Załuskich, được xây dựng
tại Warsaw vào giữa thế kỷ 18
Một yếu tố khác trong sự phát triển của
các thư viện thuê bao là chi phí sách ngày
càng tăng. Trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ,
đặc biệt, giá thực tế đã tăng gấp đôi, do đó,
một tác phẩm tứ tấu có giá một guinea, một
shtavo 10 shilling hoặc 12 shilling, và một
duodecimo có giá 4 shilling trên mỗi tập.
Ngoài ra, giá cả, sách rất khó mua ngoài Luân
Đôn, vì các nhà sách địa phương không đủ
khả năng để mang các cổ phiếu lớn.[26] Các
thư viện thương mại, vì chúng thường được
212
liên kết với các nhà bán sách và cũng vì họ có
số lượng khách hàng quen nhiều hơn nên có
thể tích lũy số lượng sách lớn hơn. Thư viện
công cộng Hoa Kỳ được cho là có một bộ sưu
tập khoảng 52.000 tập - nhiều gấp đôi so với
bất kỳ thư viện đăng ký riêng nào ở nước này
trong thời kỳ đó.[27] Các thư viện này, vì
chúng hoạt động như một doanh nghiệp, cũng
cho mượn sách cho những người không đăng
ký trên hệ thống.[28]
Bất chấp sự tồn tại của các thư viện
đăng ký này, chúng chỉ có thể truy cập được
mặc dù ai có thể trả phí và cho những người
có thời gian đọc vào ban ngày. Như James
Van Horn Melton đã tuyên bố, một người
không nên nói quá về mức độ mà các thư viện
cho vay 'dân chủ hóa' khi đọc sách kể từ khi
họ có lẽ ít quan trọng hơn trong việc tạo độc
giả mới hơn là cho phép những người đã đọc
đọc nhiều hơn. " Đối với nhiều người, các thư
viện này, mặc dù dễ tiếp cận hơn các thư viện
như Thư viện Anh, phần lớn vẫn là một tổ
chức dành cho tầng lớp trung lưu và thượng lư
1.3. Quan điểm của các nước trên thế
giới về thư viện công cộng
1.4. Tuyên ngôn của UNESCO về thư
viện công cộng
213
Tuyên ngôn của UNESCO về thư viện
năm 1994 có đoạn viết: “Thư viện công cộng
mở ra cơ hội cho người dân ở cơ sở tiếp cận
tới tri thức, đảm bảo cho họ học tập liên tục
và tự quyết định sự phát triển văn hoá của
mình, của nhóm cộng đồng”.
2. Những đặc điểm của thư viện công
cộng Việt Nam
2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về thư viện công cộng.
Quản lý nhà nước về thư viện (TV) là một
phạm trù rộng lớn, có tầm ảnh hưởng vĩ mô
đối với một lĩnh vực, một ngành ở một quốc
gia, dân tộc. Trong phạm vi bài viết, tác giả
khái quát một số nội dung lớn trong quản lý
nhà nước về TV ở Việt Nam trong khoảng 20
năm trở lại đây xoay quanh 3 vấn đề chính:
Chủ thể quản lý nhà nước về TV; Thực trạng
quản lý nhà nước về TV gần 20 năm qua; Đề
xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản
lý nhà nước về TV.
1. Chủ thể quản lý nhà nước về thư viện
Chúng ta biết rằng, từ nhiều năm nay Chính
phủ đã giao cho Bộ Văn hoá - Thông tin (nay
là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch -
VHTTDL) là cơ quan giúp Chính phủ quản lý
nhà nước về hoạt động TV trên toàn lãnh thổ
Việt Nam (điều này đã được ghi rõ trong Pháp
214
lệnh TV và các Nghị định của Chính phủ về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ VHTTDL). Để thực hiện tốt vai
trò, chức năng quan trọng này, hai thập kỷ
qua, nhằm thể chế hoá những quan điểm của
Đảng (qua các kỳ Đại hội Đảng) về chính
sách văn hoá nói chung, về TV nói riêng, Bộ
VHTTDL đã có nhiều cố gắng, nỗ lực tham
mưu cho Chính phủ ban hành nhiều văn bản
pháp quy (VBPQ) quan trọng về lĩnh vực TV.
Hệ thống VBPQ (nói chung là cơ chế - chính
sách của Nhà nước) trong lĩnh vực TV đã dần
được hoàn thiện. Đặc biệt năm 2000, Pháp
lệnh TV được ban hành (cùng với các Nghị
định, Quyết định của Chính phủ, Thông tư,
Chỉ thị, Quyết định của Bộ VHTTDL và các
Bộ, ngành Trung ương (TW) được ban hành
(đến thời điểm hiện tại năm 2017, có gần 30
VPPQ về lĩnh vực TV hoặc liên quan đến
quản lý nhà nước về công tác TV), trong đó:
- 01 văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
ban hành (ngày 28/12/2000): Pháp lệnh TV.
- 04 Văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ: Nghị định số 72/2002/NĐ-CP
ngày 06/8/2002 của Chính phủ Quy định chi
tiết thi hành Pháp lệnh TV; Nghị định số
02/2009/NĐ-CP ngày 06/01/ 2009 của Chính
phủ Quy định về tổ chức và hoạt động của TV
215
tư nhân có phục vụ cộng đồng, Quyết định số
184/2014/QĐ-TTg ngày 24/2/2014 của Thủ
tướng Chính phủ về Ngày Sách Việt Nam;
Quyết định số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017
phê duyệt Đề án phát triển văn hoá đọc trong
cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030 và một số văn bản khác của chính
phủ.
- Văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ
VHTTDL gồm 5 Quyết định và 4 Thông tư.
- Văn bản của các Bộ, ngành khác ban hành
có liên quan đến TV, gồm 15 Thông tư và các
Quyết định, Chương trình phối hợp liên ngành
(trong đó liên quan đến TV hệ thống giáo dục
và đào tạo, có 01 Quyết định số 13/2008/QĐ-
BVHTTDL của Bộ VHTTDL ban hành Quy
chế mẫu về tổ chức và hoạt động của TV
trường Đại học; 01 Quyết định số
01/2003/QĐ/BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn TV
trường phổ thông; 01 Chương trình Phối hợp
công tác số 122/CTPH-BVHTTDL-BGDĐT
ngày 15/01/2016 giữa Bộ VHTTDL và Bộ
Giáo dục và Đào tạo trong việc “Nâng cao
hiệu quả quản lý Nhà nước về TV và đẩy
mạnh các hoạt động giáo dục, học tập suốt đời
trong các TV, giai đoạn 2016 - 2020” và 04
216
Thông tư liên tịch của các Bộ có liên quan đến
công tác TV.
Bên cạnh đó, hệ thống VBPQ về TV do các
địa phương ban hành (chủ yếu là Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc TW ban
hành) về công tác TV/ liên quan đến TV khá
nhiều: trên cơ sở các văn bản của TW, chính
quyền địa phương các cấp đã ban hành (theo
thẩm quyền) 184 văn bản quy phạm pháp luật
triển khai thực hiện các quy định, chính sách
của Nhà nước, để chỉ đạo hoạt động TV ở địa
phương; 14 quyết định phê duyệt quy hoạch,
33 quyết định phê duyệt đề án phát triển
ngành TV ở địa phương. Ngoài ra, các quyết
định về quy chế tổ chức, hoạt động của TV
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đang đi vào cuộc
sống, tạo nên hành lang pháp lý khá thuận lợi
cho các TV phát triển.
Có thể nói, Bộ VHTTDL với chức năng tham
mưu cho Chính phủ thực hiện vai trò quản lý
nhà nước trong lĩnh vực TV, bằng việc xây
dựng cơ chế, chính sách và ban hành các
VBPQ quan trọng (của Quốc hội, Chính phủ,
các Bộ, ngành ở TW) với hệ thống VBPQ nêu
trên (cả ở TW và địa phương), đã được triển
khai vào cuộc sống, thực sự đã tạo ra hành
lang pháp lý tương đối đồng bộ, thống nhất và
khá thuận lợi cho hoạt động của các hệ thống
217
TV Việt Nam phát triển. Các quy định hiện
hành nhìn chung khá phù hợp với hệ thống
pháp luật Việt Nam và quốc tế, tạo nền móng
cho hoạt động TV Việt Nam có khả năng hội
nhập với hoạt động TV trong khu vực và thế
giới, đồng thời là công cụ quan trọng để tăng
cường công tác quản lý nhà nước về TV trên
lãnh thổ Việt Nam.
2. Thực trạng quản lý nhà nước về thư viện
gần 20 năm qua
Như trên đã nói, hệ thống VBPQ về lĩnh vực
TV ở nước ta (do các cơ quan quản lý nhà
nước ở TW ban hành hay do chính quyền các
cấp địa phương ban hành), đều nhằm mục
đích chung là tạo điều kiện cho sự phát triển
của các hệ thống TV ở Việt Nam. Nhìn trên
bình diện cả nước, khoảng hai thập kỷ trở lại
đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, sự quan tâm đầu tư ngày càng tăng
của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hoá nói
chung, lĩnh vực TV nói riêng, hoạt động TV
Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh
cả về số lượng và chất lượng, góp phần đắc
lực vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước.
Cho đến nay ở nước ta đã hình thành 2 hai
loại hình TV cơ bản: TV công cộng với gần
18.000 TV (Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63
218
TV cấp tỉnh, trên 626 TV cấp huyện và hàng
nghìn TV/ tủ sách cấp xã và cơ sở); TV
chuyên ngành với gần 400 TV đại học và cao
đẳng, 24.746 TV các trường phổ thông, gần
80 TV các bộ, ngành, các viện, trung tâm
nghiên cứu...). Mặt khác, với chủ trương xã
hội hoá trong lĩnh vực văn hoá, bên cạnh các
TV nhà nước, đã xuất hiện mô hình TV tư
nhân, TV tủ sách dòng họ, gia đình, đã tham
gia tích cực vào việc phục vụ đáp ứng nhu cầu
thông tin, tri thức của cộng đồng, của toàn xã
hội.
Việc đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về
một lĩnh vực nào đó luôn là vấn đề khó khăn,
phức tạp, đặc biệt lĩnh vực TV ở Việt Nam
(với những hệ thống/ diện phủ sóng vừa
nhiều, vừa rộng, lại có cả 4 cấp hành chính từ
TW đến cơ sở). Vì vậy, tác giả chọn cách
đánh giá khái quát hiệu quả quản lý nhà nước
về TV ở nước ta khoảng 20 năm trở lại đây
theo một số tiêu chí chủ yếu sau:
2.1. Về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
và hiện đại hoá cho hoạt động thư viện
Đây là chỉ số quan trọng và đầu tiên khi nói
về hiệu quả quản lý nhà nước về công tác TV.
Bởi lẽ một trong 4 yếu tố cấu thành TV là trụ
sở, trang thiết bị TV.
219
Gần hai thập kỷ qua, nhất là từ khi có Pháp
lệnh TV (VBPQ có tính pháp lý cao nhất về
lĩnh vực TV ở Việt Nam hiện nay), cùng với
các Nghị định của Chính phủ, các VBPQ quan
trọng khác của TW và địa phương đã đem lại
những kết quả to lớn, rất ấn tượng cho hoạt
động TV trong cả nước. Minh chứng là đã có
nhiều nhà/ công trình TV được đầu tư xây
dựng mới. Rõ ràng với những chính sách mới
về TV được ban hành (Pháp lệnh TV) và
nhiều VBPQ quan trọng của TW đã “đánh
thức tư duy” của nhiều cán bộ lãnh đạo từ TW
đến địa phương, để từ đó thông qua Hội đồng
nhân dân các tỉnh/ thành phố, ngân sách chi
cho xây dựng và đầu tư cho TV được ưu tiên.
Bằng chứng là: các TV ở TW, các TV tỉnh,
thành, TV các trường đại học, TV Bộ,
ngành... đã được sự quan tâm và đầu tư về cơ
sở vật chất. Ví dụ: chỉ riêng hệ thống TV công
cộng Việt Nam, từ năm 2000 đến nay, đã xây
dựng mới được khoảng trên 50% TV tỉnh,
thành (bình quân mỗi TV từ 30-40 tỷ đồng,
như: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình
Dương, Bạc Liêu, Cà Mau; có TV được xây
dựng từ 60-80 tỷ như: Hải Dương, Nghệ An,
Đồng Nai, Đồng Tháp; đặc biệt có TV được
xây trên 100 tỷ đồng như: Thanh Hoá, Bà Rịa
- Vũng Tàu; TV tỉnh Quảng Ninh được xây
dựng khoảng 400 tỷ đồng. Nhiều TV và trung
220
tâm thông tin - TV trường đại học lớn đã được
xây dựng mới với kinh phí hàng chục tỷ đồng
như: TV trường Đại học Bách khoa Hà Nội
(200 tỷ đồng); Trung tâm Thông tin - TV,
trường Đại học Giao thông Vận tải (25 tỷ
đồng); Trung tâm Thông tin - TV, trường Đại
học Thương mại (10 tỷ đồng); đặc biệt 04
Trung tâm Học liệu ở các tỉnh, thành: Cần
Thơ, Thái Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà
Nẵng (chủ yếu xây bằng nguồn vốn của tổ
chức nước ngoài, trị giá mỗi trung tâm trên/
dưới 100 tỷ đồng) và một số TV trường đại
học ở thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng
mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại (hàng chục
tỷ đồng).
Bên cạnh đó, có nhiều đề án lớn của TW và
các địa phương đầu tư cho hiện đại hoá TV
như: điện tử hoá hoạt động TV, cấp trang thiết
bị TV hiện đại với nhiều tỷ đồng. Ví dụ, TV
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (đầu tư 30 tỷ), TV
tỉnh Gia Lai (hơn 3 tỷ), TV tỉnh Đắk Lắk (3,5
tỷ), TV tỉnh Sơn La (1,8 tỷ), TV tỉnh Lạng
Sơn (1,5 tỷ), TV tỉnh Bình Phước (2,2 tỷ)...
Thêm vào bức tranh chung đó, ở một số tỉnh
có điều kiện như: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Bình Dương, chính quyền địa phương
cũng đã có sự ưu tiên cho xây dựng và đầu tư
hiện đại hoá TV. Ở một số tỉnh này, nhiều TV
cấp huyện được xây mới (có TV huyện được
221
xây trên 10 tỷ đồng, được đầu tư hàng chục
máy tính), nối mạng với TV tỉnh, TV huyện...,
phục vụ cho nhu cầu bạn đọc rất hiệu quả.
2.2. Về tăng cường kinh phí, vốn sách, báo,
tài liệu cho thư viện
Song song với việc đầu tư xây dựng trụ sở các
TV trong cả nước, hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về TV cũng đã được biểu hiện rõ
trong việc tăng kinh phí và tăng vốn sách,
báo, tài liệu cho TV. Theo thống kê các TV
tỉnh/ thành gửi về Vụ TV (Bộ VHTTDL) hàng
năm, kinh phí chi cho hoạt động TV ở nhiều
nơi, năm sau cao hơn năm trước (bình quân từ
6 đến 10%). Một số TV tỉnh, thành phố, các
trường đại học lớn đã có sự ưu tiên kinh phí
để mua các “bộ sưu tập số”, hoặc ưu tiên ngân
sách để “hồi cố” sách, báo, tài liệu TV, nhằm
từng bước xây dựng “CSDL thư mục”;
“CSDL toàn văn” trong TV. Bên cạnh đó,
phải kể tới Chương trình mục tiêu quốc gia
của Chính phủ (thông qua Bộ VHTTDL) từ
năm 1995-2015, mỗi năm trị giá hàng chục tỷ
đồng cho 63 TV tỉnh, gần 400 TV huyện miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới... Rõ ràng,
với việc tăng ngân sách cho TV, vốn tài liệu,
sách, báo (cả tài liệu giấy và tài liệu điện tử)
trong nhiều TV tỉnh, TV các trường đại học ở
222
Việt Nam đã tăng lên đáng kể, làm phong phú
hơn kho tài liệu TV.
2.3. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đội ngũ người làm thư viện
Nhìn chung, nguồn nhân lực (người làm TV)
cho hệ thống TV cả nước đã được chú trọng
hơn so với trước. Nhằm đáp ứng yêu cầu về
hoạt động thực tiễn phục vụ văn hoá đọc trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước (nhất là ứng dụng công nghệ thông tin,
từng bước xây dựng TV điện tử, TV số),
nhiều TV đã quan tâm và nâng cao chất lượng
đội ngũ người làm TV, trong đó có việc
không ngừng bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ,
trình độ ngoại ngữ, tin học, đặc biệt sử dụng
phần mềm TV hiện đại. Được biết hàng năm,
Bộ VHTTDL đã tổ chức các lớp tập huấn cho
người làm TV tỉnh, TV huyện (với số lượng
hàng trăm người/ năm). Bộ Quốc phòng cũng
thường xuyên tổ chức tập huấn cho người làm
TV trong quân đội. Nhiều người làm TV được
cử đi đào tạo ở nước ngoài hoặc đào tạo tại
các trường đại học trong nước (thạc sỹ, tiến
sỹ). Ngoài ra, các tổ chức quốc tế như: Quỹ
Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ), Quỹ Force
(Hà Lan), Quỹ Sida (Thuỵ Điển) và nhiều tổ
chức nước ngoài đã hỗ trợ đào tạo cho người
làm TV ở Việt Nam.
223
2.4. Về đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực
thư viện
Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của
Bộ VHTTDL và các Bộ, Ban, ngành TW, sự
hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức xã hội, công
tác xã hội hoá trong lĩnh vực TV đã đạt được
nhiều thành tựu. Hệ thống VBPQ về TV đã
tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho công
tác xã hội hoá, nhờ đó ngành TV từ TW tới
địa phương đã huy động được các nguồn lực
to lớn, hỗ trợ, quyên góp về vật chất, tinh thần
cho sự phát triển TV Việt Nam. Bên cạnh hệ
thống TV nhà nước (TV công lập), các TV
dân lập được hình thành và phát triển, như:
TV tư nhân có phục vụ cộng đồng (hiện nay
có gần 60 TV), Tủ sách dòng họ, chương trình
“Sách hoá nông thôn”, Tủ sách gia đình (do
ông Nguyễn Quang Thạch khởi xướng, đến
nay có khoảng gần 350 đơn vị). Bên cạnh đó,
phải kể đến sự tài trợ của các tổ chức trong và
ngoài nước về sách, báo, trang thiết bị cho hệ
thống TV Việt Nam. Hàng năm, Thư viện
Quốc gia Việt Nam, 63 TV tỉnh, các TV
chuyên ngành, đa ngành đã nhận được hàng
chục nghìn bản sách do Quỹ Châu Á tặng (trị
giá hàng tỷ đồng) và thông qua Ngày Sách
Việt Nam (21/4), nhiều sách, báo, trang thiết
bị TV của các tổ chức quốc tế, các đại sứ
224
quán, lãnh sự quán các nước trên thế giới hỗ
trợ cho các TV ở Việt Nam.
Hàng năm, Cục Xuất bản, Vụ Thư viện, Thư
viện Quốc gia Việt Nam, các nhà xuất bản lớn
ở TW (Chính trị Quốc gia, Quân đội nhân
dân, Phụ nữ, Kim Đồng, Nhà xuất bản Trẻ) đã
hỗ trợ hàng vạn cuốn sách, trị giá hàng tỷ
đồng cho các TV cơ sở. Đặc biệt từ năm
2013-2015, Nhà xuất bản Kim Đồng triển
khai dự án tặng 01 triệu cuốn sách cho trường
học vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (trị
giá 2 tỷ đồng).
Đáng chú ý là, từ năm 2011 đến 2017, Dự án
“Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy
cập Internet công cộng tại Việt Nam”, do Quỹ
Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ) tài trợ, tổng
trị giá gần 40 triệu USD Mỹ, đã cấp khoảng
11.500 máy tính cho 40/63 tỉnh ở Việt Nam,
Ngoài ra, từ năm 2005 đến 2013, các tổ chức
phi chính phủ của các nước: Hoa Kỳ, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Thuỵ Điển và
Ngân hàng thế giới (WB) đã hỗ trợ, tài trợ,
đầu tư cho hệ thống TV các trường đại học và
cao đẳng ở Việt Nam với các dự án xây dựng
Trung tâm Học liệu ở các tỉnh, thành: Thái
Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Cần
Thơ (hoặc các dự án TV điện tử/ TV số, các
lớp tập huấn người làm TV), trị giá các hạng
225
mục tài trợ/ hỗ trợ nói trên từ vài tỷ đến vài
chục tỷ đồng). Đặc biệt, để huy động mọi
nguồn lực cho TV Việt Nam phát triển, 10
năm trở lại đây, đã có 8 TV tỉnh/ thành (Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Yên Bái, Sơn
La, Nghệ An, Quảng Nam, Gia Lai và An
Giang) được tài trợ xe ôtô TV lưu động (do
các tổ chức nước ngoài và doanh nghiệp Việt
Nam tài trợ), mỗi chiếc xe từ 01 tỷ đến 1,5 tỷ
đồng.
2.2. Những đặc điểm của mạng lưới
thư viện công cộng Việt Nam
3. Tổ chức mạng lưới thư viện công
cộng ở Việt Nam
3.1. Hệ thống quản lý mạng lưới thư
viện công cộng ở Việt Nam
1. Thứ viện quốc gia Việt Nam
Thư viện quốc gia Việt Nam là thư
viện khoa học tổng hợp lơn nhất của nước ta,
là thư viện đứng đầu hệ thông thư viện công
cộng nhà nước, là thư viện tiêu biểu cho nền
văn hóa của dân tộc, là trung tâm giao lưu các
mối quan hệ giữa các hệ thống thư viện trong
nước và quan hệ quốc tế.
Lịch sử hình thành và hoạt động của
thư viện quốc gia Việt Nam
226
* Thời thuộc Pháp
Ngày 29/11/1917, Chính phủ Pháp ra
Nghị định thành lập Nha lưu trữ và Thư viện
trung ương của Đông Dương tại Hà Nội, coi
đây là một công trình “khai hóa văn minh”
cho dân bản xứ. Thực chất là tổ chức một cơ
quan văn hóa nhằm phục vụ đường lối chính
trị, kinh tế, văn hóa của Chính phủ Pháp đối
với các nước thuộc địa. Năm 1935 thư viện
đổi tên thành thư viện Pierre Pasquieur (tên
của toàn quyền Đông Dương iúc đó). Năm
1947 lại lấy tên là Thư viện trung ương.
Thư viện trung ương Đông Dương
cố nhiệm vụ:
- Tàng trữ sách báo tài liệu do các
cơ quan chính trị, kinh tế, văn hóa cửa
Pháp ở Đông Dương nghiên cứu biên soạn;
- Kiểm soát việc nộp lưu chiểu xuất
bản' phẩm ở Đông Dương để gửi sang thư
viện quốc gia Paris mỗi thứ 01 bản;
- Tổ chức phục vụ người Pháp làm
việc ở Đông Dương và
một số trí thức người Việt; í
- Biên soạn thư mục phục Vụ cho
việc thống kê đăng ký và mục đích khai
thác thuộc địa.
Cơ cấu thư viện gồm 7 phòng: phòng
227
đọc sách, phòng mượn sách, phòng sách
nhi đồng, phòng báo chí, phòng bản đồ,
phòng thư tịch, phòng pháp chế. Ngoài ra
cố bộ phận quản lý bản nộp lưu chiểu và
xưởng đống bìa sách riêng.
Thư viện chính thức hoạt động vào
01/09/1919 do Paul Boudet (là phó quản
đốc thư viện và lưu trữ ở Rouen sang làm
giám đốc). Vốn sách ban đầu là 5000 bản
tiếng Pháp. Từ năm 1921 bắt đầu bổ sung
sách tiếng Việt nhưng tốc độ bổ sung rât
chậm. Đến năm 1939 kho sách thư viện có
92 000 bản, trong đó đại bộ phận là tiếng
Pháp. Sách tiếng Việt có một số tác phẩm
Hán - Nôm, chữ Quốc ngữ có giá trị, còn
phần lớn là những cuốn sách mỏng, không
cồ giá trị cao, thường là sách giáo khoa,
những tập văn thơ, những câu chuyện kể,
sách dịch, tái bần truyện “tàu”, sách tôn
giáo ( sách phúc âm truyền đạo của Thiên
chúa giáo và Phật giáo). Nội dung sách
tiếng Pháp đa số thuộc về khoa học xã hội:
sách chính trị, triết học, tác phẩm văn học
lãng mạn, lịch sử, từ điển, bách khoa toàn
thư.... Sách khoa học tự nhiên rất ít, sách
kỹ thuật tập trung vào các ngẳnh khai thác
mỏ, xây dựng cầu cống, đường sá, các loại
cây công nghiệp như cao su, cà phê ....
228
Người đọc của thư viện thời Pháp
thuộc chủ yếu là người Pháp và một số trí
thức người Việt do Pháp đào tạo. số ghế trong
phòng đọc gồm 120 chỗ (suốt từ 1919 cho đến
1954). Hình thức và phương pháp phục vụ
người đọc nghèo nàn.
Người Pháp đảm nhiệm các chức ưách
quan trọng trong thư viện, có một số người
Việt làm ưong thư viện như Phạm Đình Diễm,
Trần Văn Kha, Nguyễn Văn Xước, Ngô Đình
Nhu. Năm í 1938 Ngô Đình Nhu được chính
phủ Pháp bổ nhiệm làm phó giám đốc thư
viện. Ngân sách chính phủ Pháp dành cho
công tác bổ sung và xây dựng cở sở vật chất
của thư viện rất ít nên số lượng sách tăng
chậm, ưang thiết bị thiếu thốn. Kỹ thuật thư
viện chưa tốt, qui tắc mô tả chưa thống nhất,
thư viện chỉ có mục lục chữ cái và mục lục
chủ dề, không có mục lục phân loại, công tác
thư mục chưa phát triển mạnh.
Cuối năm 1954 kho sách của thư viện
trung ương Đông Dương có 180 000 bản.
Trước khi rút khỏi Hà Nội, người Pháp mang
đi 800 hòm tài liệu quí, do vậy khi chính
quyền nhân dân tiếp quản thư viện số lượng
sách còn lại (khoảng trên 67 000 bản) không
còn giá trị cao.
* Thời kỳ từ 1955 đến nay
229
Năm 1957 Thủ tướng Chính phủ ra
quyết định thành lập Thư viện quốc gia Việt
Nam.
Trong quá trình phát triển của mình,
chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của thư viện có
sự thay đổi tùy thuộc vào các qui định frong
các văn bản pháp qui. Ví dụ: Quyết định 401-
Ttg của Thủ tướng chính phủ ngày 6/10/1976,
Quyết định số 579 TC-QĐ ngày 17/03/1997
của Bộ Văn hóa Thông tin, Pháp lệnh thư viện
ngày 28/12/2000). Theo Quyết định số 579
TC-QĐ ngày 17/03/1997 của Bộ Văn hóa
Thống tin quy định về “chức năng, ntriệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Thư
viện quốc gia Việt Nam”, Thưviện quốc gia
có các nhiệm vụ sau:
1. Thu nhện xuất bản phẩm ưong
nước theo chế độ nộp lưu chiểu, biên soạn
và xuất bản thư mục quốc gia;
2. Thu nhận luận án tiến sĩ,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_thu_vien_hoc_dai_cuong_nghe_thu_vien.pdf