Các nhân viên dự báo của Cơ quan Thời tiết Quốc gia (NWS) đã bỏ ra một
phần lớn thời gian lm việc mỗi ngy để trả lời điện thoại với những câu hỏi về thời
tiết sắp tới. Đôi khi ng?ời ta muốn biết ván golf của mình có bị m?a không hoặc l
những cây cảnh ngoi trời của họ có thể bị tổn th?ơng do s?ơng muối ban đêm hay
không. Nh?ng những khía cạnh quan trọng nhất của công việc của một nhân viên
dự báo không can dự đến những chuyện tiện nghi hay không đơn thuần, ml
những câu hỏi liên quan tới những vấn đề sống sót hay chết.
Đó ltr?ờng hợp đối với Mark Moede, nhkhí t?ợng học với Phòng dự báo của
NWS ở San Diego. Cuối tháng 8 năm 1998, phần lớn miền nam California đã bị đe
dọa bởi những vụ cháy do hoạt động dông sét nặng bất th?ờng phát sinh. Các nhân
viên cứu hỏa chiến đấu với lửa đã nhận đ?ợc những tin cập nhật liên tục về điều
kiện thời tiết có thể ngăn chặn hoặc lkhích lệ sự lây lan của đám cháy. Vo ngy 2
tháng 9 tình huống đã đạt tới giai doạn đỉnh điểm của nó. Pete Curran, nhân viên
của Cục phòng hỏa quận Orange, đã duy trì liên lạc trực tiếp với Moede nhằm cập
nhật liên tục về một loạt các trận lốc tố đang tới. Vấn đề lliệu lốc tố có tiếp tục
mạnh lên hay không, hoặc lliệu lốc tố có đi qua những khu vực nơi những ng?ời
chữa cháy đang tác nghiệp hay không. Nếu gió bão đi theo đ?ờng đó, thì gió mạnh,
sấm sét nguy hiểm vm?a ro mù mịt sẽ đ?a các đội cứu hỏa của Curran vo thế
nguy hiểm. Nhờ trợ giúp của rađa Doppler vthông tin từ các trạm thời tiết tự
động, Moede đã có một cú thông báo điện thoại đúng đắn. Ông đã khuyên Curran
rút các đội của mình khỏi tuyến đi xác suất cao của cơn bão, nơi gió trên 95 km/h
tạo nên một trận bão lửa không thể kiểm soát nổi. Về sau, những ng?ời chữa cháy
đã báo cáo lại rằng tuyến ho ngăn lửa mhọ sơ tán khỏi đã bị thiêu trụi hon
ton. Nếu nh?cuộc gọi yêu cầu sơ tán không đ?ợc thực hiện, thì rất có thể lmột số
lính chống cháy đã bị giết chết.
Ch?ơng ny thảo luận những ph?ơng pháp mcác nhdự báo sử dụng để thực
hiện nhiệm vụ của họ. Đầu tiên chúng ta xem xét một số vấn đề quan trọng liên
quan tới khái niệm chung về dự báo thời tiết vsau đó bn luận những ph?ơng
thức thu nhận vxử lý các dữ liệu cần thiết. Sau nữa, chúng ta nghiên cứu các loại
bản đồ thời tiết khác nhau vchúng đ?ợc dùng nh?thế no trong khi phân tích
thời tiết.
47 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Thời tiết và khí hậu: Hoạt động của con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 5 - Hoạt động của con ng{ời
Chơng 13
Dự báo v phân tích thời tiết
Các nhân viên dự báo của Cơ quan Thời tiết Quốc gia (NWS) đã bỏ ra một
phần lớn thời gian lm việc mỗi ngy để trả lời điện thoại với những câu hỏi về thời
tiết sắp tới. Đôi khi ngời ta muốn biết ván golf của mình có bị ma không hoặc l
những cây cảnh ngoi trời của họ có thể bị tổn thơng do sơng muối ban đêm hay
không. Nhng những khía cạnh quan trọng nhất của công việc của một nhân viên
dự báo không can dự đến những chuyện tiện nghi hay không đơn thuần, m l
những câu hỏi liên quan tới những vấn đề sống sót hay chết.
Đó l trờng hợp đối với Mark Moede, nh khí tợng học với Phòng dự báo của
NWS ở San Diego. Cuối tháng 8 năm 1998, phần lớn miền nam California đã bị đe
dọa bởi những vụ cháy do hoạt động dông sét nặng bất thờng phát sinh. Các nhân
viên cứu hỏa chiến đấu với lửa đã nhận đợc những tin cập nhật liên tục về điều
kiện thời tiết có thể ngăn chặn hoặc l khích lệ sự lây lan của đám cháy. Vo ngy 2
tháng 9 tình huống đã đạt tới giai doạn đỉnh điểm của nó. Pete Curran, nhân viên
của Cục phòng hỏa quận Orange, đã duy trì liên lạc trực tiếp với Moede nhằm cập
nhật liên tục về một loạt các trận lốc tố đang tới. Vấn đề l liệu lốc tố có tiếp tục
mạnh lên hay không, hoặc l liệu lốc tố có đi qua những khu vực nơi những ngời
chữa cháy đang tác nghiệp hay không. Nếu gió bão đi theo đờng đó, thì gió mạnh,
sấm sét nguy hiểm v ma ro mù mịt sẽ đa các đội cứu hỏa của Curran vo thế
nguy hiểm. Nhờ trợ giúp của rađa Doppler v thông tin từ các trạm thời tiết tự
động, Moede đã có một cú thông báo điện thoại đúng đắn. Ông đã khuyên Curran
rút các đội của mình khỏi tuyến đi xác suất cao của cơn bão, nơi gió trên 95 km/h
tạo nên một trận bão lửa không thể kiểm soát nổi. Về sau, những ngời chữa cháy
đã báo cáo lại rằng tuyến ho ngăn lửa m họ sơ tán khỏi đã bị thiêu trụi hon
ton. Nếu nh cuộc gọi yêu cầu sơ tán không đợc thực hiện, thì rất có thể l một số
lính chống cháy đã bị giết chết.
Chơng ny thảo luận những phơng pháp m các nh dự báo sử dụng để thực
hiện nhiệm vụ của họ. Đầu tiên chúng ta xem xét một số vấn đề quan trọng liên
quan tới khái niệm chung về dự báo thời tiết v sau đó bn luận những phơng
thức thu nhận v xử lý các dữ liệu cần thiết. Sau nữa, chúng ta nghiên cứu các loại
bản đồ thời tiết khác nhau v chúng đợc dùng nh thế no trong khi phân tích
thời tiết.
Vì sao dự báo thời tiết ch~a hon thiện
Tất cả chúng ta đã từng có những kế hoạch tỉ mỉ bị phá vỡ bởi một dự báo thời
tiết xấu v cũng rất nhanh nhạy tìm ra lỗi khi những điều kiện thực khác với dự
báo. Nh vậy, điều ẩn chứa bên trong thái độ phê phán nh vậy chính l phải nhận
thức đợc rằng các dự báo cần phải đúng đắn v rằng không có chuyện xin lỗi đối
với một sai lầm. Vậy tại sao các dự báo thờng hay sai? Mặc dù, với những máy
tính rất mạnh, vệ tinh, rađa v mạng lới thông tin ton cầu, có vẻ nh lm một dự
báo tốt phải rất dễ. Tuy nhiên, dù đa số công chúng có thể nghĩ nh thế, song hon
ton không phải nh vậy - thật ra, việc dự báo thời tiết đúng l cực kỳ khó.
Để thấy tại sao, hãy hình dung bạn muốn dự báo nhiệt độ ngy mai v suy
ngẫm về một số nhân tố m bạn phải cân nhắc. Thứ nhất, hãy nhớ rằng cấu trúc
nhiệt độ của khí quyển phụ thuộc một phần vo quá trình hấp thụ v phát xạ bức
xạ (sóng ngắn v sóng di), tự chúng lại phụ thuộc vo phân bố thẳng đứng v
ngang của các chất khí khí quyển, mây v nhiều thứ khác. Cho nên, để tính nhiệt
độ tại một điểm, bạn phải bắt đầu với thông tin chi tiết về thnh phần của khí
quyển trong ba chiều đo.
Dĩ nhiên, với sự chuyển đổi không ngừng giữa các pha rắn, lỏng v hơi, thnh
phần khí quyển khó m không đổi, cho nên bạn sẽ phải dự báo những biến đổi đó
trong thời gian. Hãy nhớ thêm rằng khi nớc thay đổi pha, nhiệt ẩn đợc thêm vo
hoặc mất đi từ khí quyển; do đó, bạn sẽ phải luôn theo dõi chuyện đó v quá trình
vận chuyển bức xạ. Nhng những biến đổi pha bị ảnh hởng bởi các dòng thăng v
dòng giáng quy mô nhỏ, cho nên bạn sẽ phải dự báo nh thế no đó về các chuyển
động thẳng đứng nh một phần của tất cả những nỗ lực của bạn. Ngoi ra, chuyển
động ngang không thể không tính tới - bạn sẽ phải chấp nhận sự bình lu không
khí nóng hay không khí lạnh (chơng 10).
Về phơng diện gió, ở gần bề mặt, bạn đối mặt với những vấn đề dòng gió lân
cận mặt đất phức tạp v đánh giá nh thế no đó về các hiệu ứng ma sát giữa khí
quyển v bề mặt. Bên trên lớp ma sát thì sự việc đỡ rắm rối hơn, nhng cũng không
l bao. Bi toán cơ bản l bi toán về sự tơng tác liên tục: các chuyển động của khí
quyển lm thay đổi những chuyển động phát triển tiếp sau đó. Nói khác đi, sau một
thời gian ngắn, gió lm thay đổi gió. Cho nên, thậm chí dù bạn chỉ quan tâm tới
nhiệt độ, bạn không thể bảo l gió không đổi, trái lại, bạn buộc phải can dự vo
chuyện dự báo chuyển động khí quyển. Không may, đó l một việc rất khó khăn, bởi
vì khí quyển bất ổn định động lực. Nói nh thế chúng ta ám chỉ rằng những nhiễu
động bé nhỏ thờng lớn lên thnh các thnh tạo lớn dần dần áp đảo trờng chuyển
động. Do đó, cho dù bạn có thể chỉ quan tâm về chuyển động ở quy mô lớn nhằm
đáp ứng các mục đích về bình lu nhiệt, nhng bạn phải cân nhắc các chuyển động
cỡ nhỏ để m biết các hình thế quy mô lớn sẽ tiến hóa ra sao.
Rõ rng, dự báo thời tiết can dự vo một tập những bi toán liên kết với nhau,
mỗi bi toán khó m giải đợc một cách biệt lập, tách ra khỏi tập hợp. Trong bối
cảnh tất cả những khó khăn nh vậy, thật l đáng chú ý l dù sao thì các dự báo
đang cho thấy một sự đúng đắn no đó. Chúng ta chắc chắn sẽ ngạc nhiên lm thế
466
no m các dự báo có thể thnh công, thay vì phân vân tại sao các dự báo bị sai!
Công tác dự báo thời tiết do chính phủ Mỹ thực hiện đã bắt đầu vo những
năm 1870, khi ấy Quốc hội thiết lập một Nha Thời tiết Quốc gia trực thuộc Cục
Quân báo. Đến năm 1890, cơ quan ny đổi tên thnh Phòng Thời tiết Quốc gia
(National Weather Bureau) v chuyển sang Bộ Nông nghiệp v ở đó cho đến năm
1942 thì chuyển sang trực thuộc Bộ Thơng mại. Cơ quan Đại dơng v Khí
quyển Quốc gia (NOAA) đợc thnh lập năm 1970 để thống nhất một số cơ quan
nghiên cứu môi trờng, kể cả Nha Thời tiết Quốc gia, cơ quan ny lấy lại tên gọi
cũ của mình. Nha Khí tợng Canađa (Meteorological Service of Canada, MSC),
đóng ở Downsview, Ontario, thực hiện tất cả các nhiệm vụ dự báo cho Canađa v
đảm bảo các thông tin khí tợng địa phơng v khu vực cho 14 trung tâm thời
tiết khu vực của họ.
Các ph~ơng pháp dự báo bão
Không có một phơng pháp no l duy nhất “đúng” để dự báo thời tiết. Tùy
thuộc vo độ di của dự báo, dạng thông tin đợc yêu cầu v trạng thái hiện tại của
khí quyển đợc biết đến mức no m một phơng pháp no đó trong một loạt
phơng pháp có thể đợc sử dụng. Ngời ta thậm chí có thể cố gắng lm một dự báo
ngay cả khi không có một dữ liệu no về tình hình thời tiết hiện tại, nếu nh có
đợc thông tin di hạn. Ví dụ, một dự báo các điều kiện nóng, ẩm với một khả năng
giông buổi chiều ở Orlando, Florida vo giữa tháng 8 sẽ có cơ may đúng khá cao.
Những dự báo ny dựa trên các giá trị trung bình di hạn, đợc gọi l các dự báo
khí hậu. Rõ rng, độ tin cậy của một dự báo khí hậu phụ thuộc vo độ biến thiên
năm tới năm của các điều kiện thời tiết đối với ngy dự báo. Do đó, một sự báo dựa
trên khí hậu có thể có một khả năng đúng vừa phải đối với Orlando trong thời gian
mùa hè, song chỉ có ai thực sự bạo gan mới mu tính dự báo nh vậy cho Chicago
vo tháng 4, khi m hầu nh mọi kiểu thời tiết đều có thể xảy ra.
Một kiểu dự báo khác, đợc gọi l dự báo quán tính, dựa hon ton vo điều
kiện hiện tại, không tham chiếu tới khí hậu. Thực ra, một trờng hợp đặc biệt của
dự báo quán tính đang đợc tất cả mọi ngời chúng ta sử dụng trong đời sống hng
ngy. Khi thấy bầu trời trong xanh v bỏ lại ô ở nh, chúng ta đang cợc rằng các
điều kiện hiện hnh sẽ tiếp diễn v chúng ta đang lm một dự báo ngắn hạn dựa
trên quán tính. Phơng pháp đơn giản ny có thể tốt đối với một thời gian ngắn,
nhng cuối cùng sẽ không nắm bắt đợc những thay đổi của thời tiết. Một phiên
bản phức tạp hơn có thể dùng độ giảm áp suất trong một số giờ đã qua để chỉ thị về
một hệ thống áp thấp đang tới v độ phủ mây tăng lên gắn liền với nó. Nói cách
khác, ta có thể chấp nhận rằng xu thế cũng có quán tính để lm một dự đoán về
những biến đổi của thời tiết. Tuy nhiên, ở đây ta đã ngoại suy sự diễn biến hiện tại
vo tơng lai, với nhận thức rằng cách ny rồi cũng sẽ thất bại một khi sự diễn biến
đó ngừng lại. Đơng nhiên, thờng l chính những bớc ngoặt đó so với diễn biến
quá khứ mới l cái m chúng ta muốn dự báo; vậy một phơng pháp không đảm
bảo đợc thông tin nh vậy thì chẳng mấy hữu ích.
467
Cho đến những năm 1950, việc phân tích v dự báo thời thiết phụ thuộc hon
ton vo kinh nghiệm của các nh khí tợng học v sự lý giải của họ về tình hình
thời tiết hiện tại v trong quá khứ gần. Anh ta hoặc chị ta (thờng l anh ta ở thời
ấy) sẽ sử dụng diễn biến quá khứ lm chỉ dẫn để xác định xem một hệ thống thời
tiết hiện tại rồi sẽ diễn biến ra sao. Nói khác đi, nh khí tợng học đã chủ yếu dựa
vo sự đối chiếu tình huống hiện tại với những điều kiện tơng tự đã gặp trớc đây
(nhng không nhất thiết phải l quá khứ gần nhất) để lm cơ sở cho một dự báo.
Cách tiếp cận ny đã dẫn đến sự phát triển v sử dụng rất nhiều “qui tắc kinh
nghiệm”, nhằm thâu tóm các hình thế có khả năng lặp lại v những mối liên hệ
giữa các yếu tố thời tiết khác nhau. Ví dụ, giáng thủy vo mùa đông ở miền đông
Hoa Kỳ v Canađa thờng l tuyết ở về phía bắc của đờng đồng mức độ cao 4560
m đối với mực 500 mb v ma ở về phía nam của đờng ny. Trong phơng pháp
đợc gọi l “loại suy” ny, ngời ta cố gắng nhận dạng những nét tơng tự giữa các
điều kiện hiện tại với những hình thế tơng tự v đã đợc nghiên cứu kỹ từ quá
khứ. Phơng pháp loại suy có nhiều biến dạng khác nhau, một số mang tính chủ
quan (tùy thuộc vo trình độ của dự báo viên), một số khác khách quan (dựa vo
những quan hệ thống kê). Song tất cả đều chấp nhận l những gì đã từng xảy ra
khi no đó trong quá khứ l một chìa khóa cho tơng lai.
Trong vi thập kỷ gần đây, dự báo thời tiết bằng phơng pháp số đã chiếm một
vị trí quan trọng. Thuật ngữ ny hơi gây lầm lẫn, bởi vì tất cả các phơng pháp vừa
nêu ở trên đều cho ra các dự báo số. Cái khác nhau l ở chỗ phơng pháp ny dựa
trên các chơng trình máy tính cố gắng phỏng theo diễn biến thực của khí quyển.
Tức l, các mô hình thời tiết số trực tiếp tính toán sự tiến hóa của gió, áp suất,
nhiệt độ v các yếu tố khác trong thời gian. Bằng cách xem xét đầu ra ứng với một
thời điểm đã định, ngời ta có đợc một bức tranh về trạng thái ba chiều của khí
quyển tại thời điểm đó. (Điều ny trái lại với việc dự báo các giá trị bề mặt cho một
số yếu tố thời tiết, nh các phơng pháp khác có thể lm). Những mô hình số điển
hình sử dụng trong dự báo thời tiết rất lớn v chỉ có thể chạy trên các máy tính
mạnh nhất, gọi l siêu máy tính. Để phản ánh tầm quan trọng của chúng trong dự
báo hiện đại, các mô hình ny đợc trình by kỹ hơn ở mục “Các qui trình v sản
phẩm dự báo”, v chi tiết hơn nữa, ở phụ lục của chơng 13. ở đây, chúng tôi chỉ
muốn khái quát sự khác nhau giữa các phơng pháp khác v cách tiếp cận có cơ sở
vật lí ny (phơng pháp số).
Các kiểu dự báo
Sản phẩm, hay kết quả của một phơng pháp dự báo có thể có nhiều hình thức
khác nhau, chúng ta gọi l kiểu dự báo. Tất cả chúng ta khá quen thuộc với các dự
báo định lợng, trong đó chỉ ra “giá trị” của biến dự báo. Ví dụ, một dự báo nói
rằng “Lợng ma sẽ l 1 inch” l một dự báo lợng. Tơng tự, các dự báo về nhiệt
độ cao hay thấp l dự báo lợng, vì nó đa ra một trị số cho biến dự báo. Ngợc lại,
các dự báo định tính chỉ đa ra một giá trị phân loại cho biến dự báo. Các ví dụ
của kiểu dự báo ny l “ma hay không ma”, “có bão hay không có bão”, “trên hay
468
dới chuẩn”, hoặc “có mây hay có mây một phần hay gần nh quang mây”. Trong
những ví dụ ny, các biến dự báo đợc gán vo một lớp, hay loại cụ thể; vậy đó l
một dự báo định tính.
Trong những ví dụ trên, các dự báo đợc đa ra không kèm theo chỉ định giới
hạn. Các dự báo xác suất l một kiểu khác, trong đó khả năng của một sự kiện
no đó đợc nêu ra. Ví dụ, một dự báo phân loại bão có thể đợc biểu diễn thnh
một xác suất, chứ không phải thnh một khẳng định. Dự báo xác suất có thể có
nhiều dạng, phổ biến nhất có lẽ l dự báo xác suất của ma (dự báo PoP). Khi ngời
đa tin nói “khả năng ma hôm ny l 70%” hay “có thể có ma ro buổi chiều với
xác suất 60%”, thì đó một dự báo PoP. Chú ý rằng những dự báo ny không chỉ ra
một lợng ma. Trái lại, ý nghĩa của một dự báo PoP l ở chỗ một điểm chọn ngẫu
nhiên trong vùng dự báo sẽ nhận đợc lợng ma có thể đo đợc với xác suất nh
đã chỉ định. Ví dụ, một dự báo PoP 75% có nghĩa l khả năng có ma so với không
ma l 3:1, hay một cách tơng đơng, bạn chỉ có cơ may 1 trong 4 (25%) không bị
ớt trong suốt thời gian dự báo.
Đánh giá dự báo
Dù phơng pháp dự báo no đợc sử dụng, hay kiểu dự báo l gì, chúng ta
đơng nhiên cần có một cách no đó khẳng định một dự báo có tốt không. Cần thiết
những tiêu chí, ví dụ, để so sánh một phơng pháp dự báo với phơng pháp khác,
hay để quyết định xem phải cân nhắc ra sao đối với một dự báo khi lên các kế
hoạch. Quan trọng nhất, các chỉ số đánh giá rất cần thiết đối với những ngời chịu
trách nhiệm phát triển v điều hnh các chơng trình dự báo. Vì ngời ta đang liên
tục cố gắng cải tiến các quy trình thu thập dữ liệu v dự báo (với chi phí ngy cng
tăng), cho nên cần có các phơng pháp phán xét giá trị của những cải tiến, điều tiết
những chi phí tơng lai v xác định lợi ích trong đầu t. Mặc dù với t cách l
ngời sử dụng, chúng ta không đợc nghe nghiều về đánh giá dự báo, nhng đó l
một bộ phận hng ngy v không thể thiếu của công tác dự báo chuyên nghiệp.
Qua nhiều năm, nhiều tiêu chí đánh giá v cách đánh giá dự báo đã đợc đề
xuất, mỗi tiêu chí có những u v nhợc điểm riêng. Để phân loại các tiêu chí,
chúng ta phải nghĩ ngay đến mục đích của việc đánh giá. Chúng ta muốn thông tin
về chất lợng dự báo hay l giá trị dự báo? Chất lợng dự báo căn cứ vo sự
trùng khớp giữa dự báo v quan trắc, còn giá trị dự báo căn cứ vo hữu ích của dự
báo. Những thứ ny nghe có vẻ giống nhau, nhng hon ton khác nhau. Ví dụ,
một dự báo ma có - không chất lợng cao độ chính xác 100 % có thể có giá trị zero
đối với công tác kế hoạch tới ruộng, ở đó thông tin về lợng ma l quan trọng. Do
không có một quan hệ đơn giản giữa chất lợng v giá trị dự báo, nên phải có các
tiêu chí đánh giá riêng cho từng loại. Vấn đề thứ hai l kiểu dự báo: định lợng hay
định tính, xác suất hay không chỉ định giới hạn v.v... Rõ rng l, tiêu chí đánh giá
thích hợp sẽ thay đổi theo kiểu của biến dự báo. Cuối cùng, có vấn đề l chúng ta
muốn có một tiêu chí tuyệt đối của dự báo hay chúng ta chủ yếu chỉ quan tâm tới
một tiêu chí tơng đối, tiêu chí so sánh?
469
Giá trị dự báo nhất thiết phải phụ thuộc vo sự ứng dụng của một dự báo cho
một bi toán hay một quyết định cụ thể. Phần lớn các tiêu chí về giá trị dựa trên
các bảng tính mất/đoợc, nhằm cố gắng nắm bắt những rủi ro v lợi ích gắn liền với
các dự báo khác nhau v những ứng phó đối với các dự báo đó. Ví dụ, nếu biết giá
của một công việc cụ thể bị thất bại, số tiền thu đợc nếu công việc tốt đẹp v xác
suất của một dự báo đúng, bạn có thể gán giá trị bằng tiền cho dự báo. Những tiêu
chí liên quan tới xác suất l những khái niệm vợt ra ngoi khuôn khổ một giáo
trình nhập môn; cho nên, chúng tôi sẽ không bn thêm về giá trị dự báo, ngoi việc
nhấn mạnh rằng một dự báo đơn lẻ có thể có giá trị rất khác nhau, tùy thuộc nó
đợc sử dụng nh thế no.
Đối với chất loợng của một dự báo, một câu hỏi hiển nhiên đợc đặt ra l độ
chính xác của dự báo. Tức l, về trung bình, giá trị dự báo gần với giá trị thực
đến mức no? Có nhiều cách để trả lời câu hỏi đơn giản ny, mỗi cách dẫn đến một
tiêu chí chính xác khác nhau. ở mức rộng nhất, chúng ta có thể muốn có thông tin
về độ chệch của dự báo (bias), nó liên quan tới dự báo thiên cao hoặc thiên thấp
một cách có hệ thống. Một phơng pháp dự báo bị chệch l phơng pháp m giá trị
dự báo trung bình cao hơn hoặc thấp hơn giá trị trung bình thực. Ngợc lại, một
phơng pháp dự báo không bị chệch sẽ không thể hiện xu thế dự báo thiên cao hoặc
thiên thấp. Tất nhiên, điều ny cha nói lên đợc phơng pháp l hon hảo, nó chỉ
có nghĩa l giá trị thiên cao trung bình đúng bằng giá trị thiên thấp trung bình,
khiến cho sai số trung bình bằng 0. Ví dụ, nếu bạn muốn dự báo số chấm sau khi
thả một con súc sắc, bạn có thể dự báo l 3,5 chấm trong mỗi lần thả. Sau nhiều lần
thả (một con súc sắc tốt), giá trị trung bình của số chấm sẽ l 3,5, trùng khớp với
các dự báo của bạn – vì thế các dự báo không bị chệch. Tất nhiên, phơng pháp ny
không thể cho dù l chỉ một dự báo đúng. Rõ rng l, mặc dù độ chệch l một tiêu
chí hữu ích, chúng ta còn cần các tiêu chí chính xác không cho phép các sai số
dơng vô hiệu hóa các sai số âm. Tiêu chí đơn giản nhất l sai số tuyệt đối trung
bình (MAE), nó bỏ qua dấu (dơng hoặc âm) của các sai số. Tức l, các dự báo thiên
cao v thiên thấp đợc coi ngang hng nhau v đợc xử lí nh nhau v chúng ta chỉ
tìm sai số trung bình m không quan tâm tới dấu.
Đối với những ngời không chuyên nghiệp sử dụng một dự báo, độ chính xác có
lẽ l vấn đề chất lợng quan trọng nhất. Nhng những ngời chuyên nghiệp, những
ngời phát triển các phơng pháp dự báo thì thờng quan tâm đến kỹ năng dự
báo. Kỹ năng dự báo có thể đợc đo bằng nhiều cách khác nhau, song về đại thể,
khái niệm ny đợc định nghĩa l sự tiến bộ của phơng pháp dự báo đó so với các
kết quả dự báo bằng phơng pháp khí hậu, quán tính hay các phơng pháp đợc
gọi l “không có kỹ năng” khác. Nếu nh phơng pháp dự báo không tốt hơn việc
dựa vo các giá trị khí hậu, kỹ năng dự báo của phơng pháp đó đợc cho l bằng 0
– một dự báo khí hậu không cần thiết các kiến thức đặc biệt về hoạt động của khí
quyển v do đó không có kỹ năng dự báo. Ví dụ, cha từng có một lợng ma có thể
đo đợc no đợc ghi nhận ở Jerusalem vo tháng 7 trong suốt 100 năm qua. Một
phơng pháp bất kỳ đa ra dự báo “không ma” vo tháng 7 chắc chắn l sẽ thuộc
loại khá chính xác trong phần lớn các trờng hợp. Giống nh vậy, nếu bạn dự báo
470
rằng sẽ có một cơn bão nhiệt đới hoạt động ở đâu đó trên Đại Tây Dơng vo ngy
10 tháng 9 tới, bạn sẽ có một xác suất thnh công 90% (sử dụng diễn biến quá khứ
lm chỉ dẫn). Nhng những dự báo ny không có kỹ năng, bởi vì chúng không nâng
cao đợc xác suất đúng (so với khí hậu trong trờng hợp ny). Chỉ khi nếu các dự
báo đúng nhiều hơn 90% số lần dự báo, chúng ta mới có thể nói phơng pháp có một
kỹ năng no đó. Trong trờng hợp về nhiệt độ không khí, chúng ta có thể so sánh
MAE của phơng pháp dự báo với MAE thu đợc dựa trên giá trị nhiệt độ trung
bình nhiều năm. Nếu phơng pháp không khá hơn phơng pháp khí hậu, điểm kỹ
năng sẽ bằng không. ý tởng ở đây l một dự báo khí hậu không đòi hỏi hiểu biết
đặc biệt gì về diễn biến của khí quyển v do đó không có một kỹ năng gì.
Thu thập v truyền phát số liệu
Khởi điểm của hầu hết tất cả công việc dự báo thời tiết l thông tin hiện trạng
của khí quyển. Để biết tơng lai, chúng ta bắt đầu với thông tin về hiện tại. Nh
vậy, quá trình đầu tiên công tác dự báo thời tiết nghiệp vụ l thu thập số liệu cần
thiết. Điều ny cần phải có những nỗ lực quốc tế, ngay cả khi chỉ lm dự báo cho
những khu vực “nhỏ”, nh l các nớc riêng biệt; lý do sẽ trở nên rõ dới đây.
Tổ chức Khí tợng Thế giới (WMO), dới sự bảo trợ của Liên hiệp Quốc,
quản lí công tác thu thập số liệu thời tiết trên ton cầu từ 179 quốc gia thnh viên
của nó. WMO thu thập số liệu từ khoảng 10 nghìn trạm quan trắc trên lục địa,
7000 trạm quan trắc trên tu biển, 300 trạm phao neo cố định v phao thả trôi với
các đầu đo thời tiết tự động v một số vệ tinh thời tiết. WMO còn thu đợc số liệu
cao không từ khoảng 1000 trạm cao không thả bóng thám không thời tiết hai lần
một ngy v số liệu liên tục từ các dụng cụ đặt trên các máy bay dân dụng. Số liệu
từ tất cả các nớc trên thế giới đợc gửi tới ba Trung tâm Khí tợng Thế giới ở
Washington, Mỹ; Moskva, Nga v Melbourne, úc; các trung tâm ny, đến lợt
mình, truyền phát dữ liệu cho tất cả các nớc thnh viên của WMO.
Các quốc gia thnh viên của WMO đều duy trì các cơ quan khí tợng của riêng
họ để thu thập, xử lí dữ liệu v phát báo các dự báo khu vực v quốc gia. ở Mỹ, các
Trung tâm Quốc gia Dự báo Môi trờng (NCEP) của Cơ quan Thời tiết Quốc gia
(NWS) thực hiện các nhiệm vụ ny, còn ở Canađa - do Trung tâm Khí tợng
Canađa của Nha Môi trờng Khí quyển (AES) thực hiện.
Không có gì ngạc nhiên, nớc Mỹ có một mạng lới trạm quan trắc khí tợng
mặt đất tơng đối dy đặc. Trong khoảng 1000 vị trí các điều kiện thời tiết bề mặt
đợc quan trắc thì có khoảng 120 trạm l ở các trụ sở của Cơ quan Thời tiết Quốc
gia; số còn lại l ở các sân bay của Cơ quan Điều hnh Hng không Liên bang
(FAA). AES của Canađa có khoảng 720 trạm đo mặt đất. Các trạm ny ghi lại nhiệt
độ, độ ẩm, áp suất, tình trạng mây (bao gồm loại mây v độ cao chân mây v tỷ
phần diện tích bầu trời bị mây che phủ), hớng v vận tốc gió, tầm nhìn xa, sự xuất
hiện các điều kiện thời tiết đặc biệt, nh sơng mù hoặc ma v lợng ma tích lũy
đo đợc tại mặt đất. Nh một phần của chơng trình nâng cấp v hiện đại hóa hiện
471
nay (xem chuyên mục 13-1: Chuyên đề: Hiện đại hóa Cơ quan Thời tiết Quốc gia),
FAA v NWS đã lắp đặt hơn 800 đầu thu tự động, đợc gọi l Hệ thống Quan trắc
Mặt đất Tự động (viết tắt l ASOS) để đo đạc v ghi lại những yếu tố trên (hình
13.1). AES cũng đang cho hoạt động hơn 100 trạm quan trắc trên khắp nớc
Canađa, tơng tự nh hệ ASOS, v đợc gọi l Hệ thống Quan trắc Thời tiết Tự
động (AWOS).
Hình 13.1. Một trạm ASOS điển hình
Ngoi các quan trắc mặt đất đợc thực hiện tại những trạm ny, NWS còn thả
những bóng thám không, đợc bơm khí hyđrô, mang theo các bộ máy đo thời tiết,
đợc gọi l máy thám sát vô tuyến (radiosonde) (hình 13.2) . Hai lần một ngy –
vo các hạn 0000 v 12000 giờ UTC * (Thời gian Đồng bộ Toun cầu, Universal
* Các thời gian ny tơng ứng với 1900 (7:00 P.M.) v 0700 (7:00 A.M.) của Thời gian Miền
đông Tiêu chuẩn của Mỹ.
472
Coordinated Time), có khoảng 750 bóng thám sát vô tuyến đợc thả lên khí quyển
trên khắp thế giới, khoảng 80 ở trong phạm vi nớc Mỹ v Canađa. Các máy thám
sát vô tuyến liên tục quan trắc v truyền tới các trạm ghi ở mặt đất áp suất, nhiệt
độ không khí v nhiệt độ bầu ớt (từ đó xác định đợc nhiệt độ điểm sơng). Một số
máy thám sát vô tuyến đợc kiểm soát đờng đi bằng rađa khi chúng bay lên trong
khí quyển, cho phép xác định tốc độ v hớng gió của khí quyển tầng trung v tầng
cao. Các máy thám sát vô tuyến đợc kiểm soát quỹ đạo bằng ra đa đợc gọi l rađa
thám sát gió (rawinsonde).
13-1 Chuyên đề:
Hiện đại hóa Cơ quan Thời tiết Quốc gia
Trong mấy thập niên gần đây, tất cả
các mặt của công tác dự báo thời tiết đã
đợc cải thiện đáng kể. Những thnh tựu
của việc phân tích thời tiết l nhờ một
phần ở mạng lới dữ liệu bề mặt đợc cải
thiện v một phần nhờ nhận thức tốt hơn
về các nguyên lý khí tợng học. Song
những cải thiện ấn tợng nhất diễn ra
trên phơng diện công nghệ. Những máy
tính của những năm 1950 v 1960 có
công suất không thể so sánh với các phiên
bản ngy nay chỉ để chạy các mô hình thô
sơ. Thậm chí kịch tính hơn, trớc khi
phóng vệ tinh thời tiết TIROS I tháng 4
năm 1960 không có một quan trắc no
đợc thực hiện từ vũ trụ v do đó có các
khoảng trống về độ phủ không gian cả
trên lục địa lẫn đại dơng.
Đến những năm 1970, sử dụng các
máy tính tốc độ cao v các vệ tinh phức
tạp đã trở thnh chuyện bình thờng
trong dự báo nghiệp vụ. Các vệ tinh địa
tĩnh (vệ tinh quay quanh xích đạo một
vòng trong một ngy v do đó giữ nguyên
vị trí cố định bên trên mặt đất) v những
phiên bản quỹ đạo cực của chúng (vệ tinh
quay từ cực đến cực trong khi hnh tinh ở
phía dới xoay) không chỉ cung cấp ảnh
nhìn thấy v ảnh hồng ngoại về mây, m
còn xác định các đặc trng nhiệt độ v độ
ẩm tại các độ cao của khí quyển.
Sự kết hợp giữa quỹ dữ liệu tăng lên
v năng lực xử lý dữ liệu hon thiện hơn
bao giờ hết đã giúp các nh dự báo có thể
tin tởng dựa vo đầu ra của mô hình
lm chỉ dẫn cho các dự báo của họ.
Nhng đến những năm 1980, ngời ta đã
quyết định rằng một cuộc cải tổ to lớn đố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ttkh_phan_5_6_7_1__7257.pdf