Không một ai nghĩ sẽ có những mùa đông ấm áp ở Alaska, nh?ng đôi khi điều
kiện thời tiết ở đây khắc nghiệt hơn cả thông th?ờng. Điều ny đặc biệt đúng đối
với những ngy cuối tháng 1 vđầu tháng 2 năm 1999, khi đó một thời kỳ lạnh cực
đoan kéo di đã gây nên một đợt rét đột ngột tồi tệ nhất trong cả thập kỷ. Galena,
nằm ở phần phía bắc của bang, đã phá kỷ lục về nhiệt độ tối thấp khi số đo nhiệt kế
tụt xuống tới -53
o
C (-64
o
F) trong tháng 2. Tình hình khắc nghiệt đến nỗi chính
quyền thnh phố phải chính thức ngừng mọi hoạt động, ngoại trừ các dịch vụ khẩn
cấp. Nếu nh?vậy ch?a đủ lạnh, hãy xem chỉ số lạnh do gió -75
o
C (-103
o
F) ở
Kotzebue, gần bờ phía tây bắc. Tình trạng cũng không mấy dễ chịu ở Fairbanks,
vo ngy 15 tháng 2 nhiệt độ tối thấp đã tụt xuống d?ới -37
o
C (-35
o
F) trong một
ngy của đợt rét kỷ lục liên tiếp 19 ngy. Khỏi cần nói thêm rằng, không khí cũng
đặc biệt khô, bởi vì điều đó luôn luôn xảy ra trong điều kiện thời tiết lạnh.
Hãy so sánh những điều kiện thời tiết ny với những gì mTexas đã trải qua
nửa năm về tr?ớc. Vùng College Station lmột ví dụ, nơi ny có nhiệt độ trung
bình các tháng 5, 6 v7 cao nhất ch?a từng thấy, nhiệt độ tối cao v?ợt quá 38
o
C
(100
o
F) đã xuất hiện 51 lần trong thời gian từ ngy 31/5 đến 3/9. Không khí nóng
lại đi kèm với độ ẩm cao vm?a ro hiếm bất th?ờng trong suốt thời kỳ ny.
Bạn đã bao giờ phân vân về những tình huống giống nh?hai tr?ờng hợp trên
đây ch?a, khi mcác vùng rộng lớn trải qua những điều kiện thời tiết ít nhiều
giống nhau? Trong những dịp nh?vậy, những ng?ời lm công tác truyền thông
th?ờng dùng những cụm từ nh?“khắp miền Midwest,” hoặc “trên khắp miền duyên
hải phía đông”, hoặc “Hôm nay vùng tây bắc giáp Thái Bình D?ơng đã trải qua.”.
Nh?ng trái lại, cũng th?ờng hay xảy ra những tr?ờng hợp có các khu vực chỉ cách
nhau một giờ chạy xe lại có thời tiết rất khác nhau, gần nh?không có gì chung. Tại
sao có những diễn biến nh?vậy? Vì sao đôi khi khí quyển tự sắp xếp nó thnh
những vùng rộng lớn đồng nhất, rồi những lúc khác lại biến đổi rất nhanh qua
những khoảng cách nhỏ? Ch?ơng ny sẽ nói về những hiện t?ợng đó vnhững vấn
đề liên quan, sử dụng một số khái niệm rất đơn giản, nh?ng rất tiện ích.
Các tình huống ở Alaska vTexas vừa nói tới ở trên thể hiện hai tr?ờng hợp
thái cực, trong đó những khu vực rộng lớn bị bao phủ bởi một khối khí có nhiệt độ
vđộ ẩm ít nhiều đồng nhất. Những vùng không khí lớn đó đ?ợc gọi lcác khối
khí. Thông th?ờng, một vùng rộng cỡ nh?Bắc Mỹ sẽ bị phủ bởi một số khối khí
trong cùng một lúc vdo đó, lấy ví dụ, phần đông bắc n?ớc Mỹ vphần đông nam
Canađa có thể có điều kiện lạnh, khô, trong khi miền nam n?ớc Mỹ không khí
nóng, ẩm ngự trị. Kết quả l, một ng?ời có thể lên máy bay ở Nashville cảm thấy
hon ton thoải mái với chiếc áo sơ mi ngắn tay, để sau đó bị rét run khi hạ cánh ở
Boston. Ngoi ra, các khối khí đó th?ờng phân cách với nhau bởi những vùng biên
ráp gianh khá hẹp, đ?ợc gọi lcác front, ngang qua ranh giới front các điều kiện
thời tiết thay đổi rất nhanh. Sự đi qua của các front lsự kiện thời tiết đáng chú ý,
bởi vì nó th?ờng kèm theo những thay đổi đột ngột về nhiệt độ, độ ẩm vgió. Nó
còn tạo ra một cơ chế thăng trong không khí có thể dẫn tới hình thnh mây v
giáng thủy.
Trong ch?ơng ny, chúng ta sẽ mô tả sự hình thnh vbản chất của các khối
khí, các front phân cách chúng vảnh h?ởng của chúng đến thời tiết địa ph?ơng.
26 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Thời tiết khí hậu: Chương 9- Các khối khí và front, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
319
Chơng 9
các khối khí v front
Không một ai nghĩ sẽ có những mùa đông ấm áp ở Alaska, nhng đôi khi điều
kiện thời tiết ở đây khắc nghiệt hơn cả thông thờng. Điều ny đặc biệt đúng đối
với những ngy cuối tháng 1 v đầu tháng 2 năm 1999, khi đó một thời kỳ lạnh cực
đoan kéo di đã gây nên một đợt rét đột ngột tồi tệ nhất trong cả thập kỷ. Galena,
nằm ở phần phía bắc của bang, đã phá kỷ lục về nhiệt độ tối thấp khi số đo nhiệt kế
tụt xuống tới -53 oC (-64 oF) trong tháng 2. Tình hình khắc nghiệt đến nỗi chính
quyền thnh phố phải chính thức ngừng mọi hoạt động, ngoại trừ các dịch vụ khẩn
cấp. Nếu nh vậy cha đủ lạnh, hãy xem chỉ số lạnh do gió -75 oC (-103 oF) ở
Kotzebue, gần bờ phía tây bắc. Tình trạng cũng không mấy dễ chịu ở Fairbanks,
vo ngy 15 tháng 2 nhiệt độ tối thấp đã tụt xuống dới -37 oC (-35 oF) trong một
ngy của đợt rét kỷ lục liên tiếp 19 ngy. Khỏi cần nói thêm rằng, không khí cũng
đặc biệt khô, bởi vì điều đó luôn luôn xảy ra trong điều kiện thời tiết lạnh.
Hãy so sánh những điều kiện thời tiết ny với những gì m Texas đã trải qua
nửa năm về trớc. Vùng College Station l một ví dụ, nơi ny có nhiệt độ trung
bình các tháng 5, 6 v 7 cao nhất cha từng thấy, nhiệt độ tối cao vợt quá 38 oC
(100 oF) đã xuất hiện 51 lần trong thời gian từ ngy 31/5 đến 3/9. Không khí nóng
lại đi kèm với độ ẩm cao v ma ro hiếm bất thờng trong suốt thời kỳ ny.
Bạn đã bao giờ phân vân về những tình huống giống nh hai trờng hợp trên
đây cha, khi m các vùng rộng lớn trải qua những điều kiện thời tiết ít nhiều
giống nhau? Trong những dịp nh vậy, những ngời lm công tác truyền thông
thờng dùng những cụm từ nh “khắp miền Midwest,” hoặc “trên khắp miền duyên
hải phía đông”, hoặc “Hôm nay vùng tây bắc giáp Thái Bình Dơng đã trải qua...”.
Nhng trái lại, cũng thờng hay xảy ra những trờng hợp có các khu vực chỉ cách
nhau một giờ chạy xe lại có thời tiết rất khác nhau, gần nh không có gì chung. Tại
sao có những diễn biến nh vậy? Vì sao đôi khi khí quyển tự sắp xếp nó thnh
những vùng rộng lớn đồng nhất, rồi những lúc khác lại biến đổi rất nhanh qua
những khoảng cách nhỏ? Chơng ny sẽ nói về những hiện tợng đó v những vấn
đề liên quan, sử dụng một số khái niệm rất đơn giản, nhng rất tiện ích.
Các tình huống ở Alaska v Texas vừa nói tới ở trên thể hiện hai trờng hợp
thái cực, trong đó những khu vực rộng lớn bị bao phủ bởi một khối khí có nhiệt độ
v độ ẩm ít nhiều đồng nhất. Những vùng không khí lớn đó đợc gọi l các khối
khí. Thông thờng, một vùng rộng cỡ nh Bắc Mỹ sẽ bị phủ bởi một số khối khí
trong cùng một lúc v do đó, lấy ví dụ, phần đông bắc nớc Mỹ v phần đông nam
Canađa có thể có điều kiện lạnh, khô, trong khi miền nam nớc Mỹ không khí
nóng, ẩm ngự trị. Kết quả l, một ngời có thể lên máy bay ở Nashville cảm thấy
hon ton thoải mái với chiếc áo sơ mi ngắn tay, để sau đó bị rét run khi hạ cánh ở
Boston. Ngoi ra, các khối khí đó thờng phân cách với nhau bởi những vùng biên
ráp gianh khá hẹp, đợc gọi l các front, ngang qua ranh giới front các điều kiện
thời tiết thay đổi rất nhanh. Sự đi qua của các front l sự kiện thời tiết đáng chú ý,
bởi vì nó thờng kèm theo những thay đổi đột ngột về nhiệt độ, độ ẩm v gió. Nó
còn tạo ra một cơ chế thăng trong không khí có thể dẫn tới hình thnh mây v
giáng thủy.
Trong chơng ny, chúng ta sẽ mô tả sự hình thnh v bản chất của các khối
khí, các front phân cách chúng v ảnh hởng của chúng đến thời tiết địa phơng.
Sự hình thnh của các khối khí
Các đặc trng nhiệt độ, áp suất v độ ẩm của khí quyển đợc hình thnh chủ
yếu nhờ sự trao đổi nhiệt v hơi nớc liên tục ở gần bề mặt. Khi các lợng nhiệt
nhận đợc lớn hơn các lợng nhiệt mất, nhiệt độ không khí tăng lên. Một cách
tơng tự, khi xảy ra bốc hơi nhiều hơn giáng thủy, trữ lợng hơi nớc của khí quyển
giảm đi. Nhng do nhiệt lợng v nớc phân bố không đồng đều trên Trái Đất, nên
khí quyển bị lạnh đi hay nóng lên khác nhau giữa các nơi, dòng hơi nớc ròng đi
vo khí quyển cũng nh vậy. Do đó, ví dụ, không khí trên khu vực xích đạo của
Thái Bình Dơng có những đặc trng khác với không khí ở miền bắc Canađa.
Các khu vực nguồn
Những vùng trên Trái Đất m các khối khí hình thnh đợc gọi l những khu
vực nguồn. Quá trình lm nóng hay lm lạnh những khối không khí lớn đòi hỏi
nhiều ngy, thay đổi về trữ lợng nớc cũng nh vậy, cho nên không khí phải tồn
tại ổn định ở trên một vùng nguồn trong một khoảng thời gian khá di để cho một
khối khí có thể hình thnh. Các vùng nguồn của khối khí chỉ xuất hiện ở các vĩ độ
cao hoặc ở các vĩ độ thấp; khu vực các vĩ độ trung bình rất biến động, do đó không
có những thời kỳ “bình lặng” cần thiết để một khối không khí có đợc những đặc
trng của bề mặt ở dới. Hơn nữa, một vùng cần phải khá rộng lớn, nhiều chục
nghìn kilômét vuông, để có thể tác động nh một vùng nguồn. Ví dụ, dù l ở gần
cực, Iceland quá nhỏ để có thể hình thnh nên các khối khí.
Mặc dù các khối khí có nhiệt độ v trữ lợng ẩm khá đồng nhất theo phơng
ngang, nhng nhiệt độ v độ ẩm không đồng nhất từ bề mặt tới khí quyển tầng cao.
Thật vậy, các građien thẳng đứng khá lớn của nhiệt độ có thể dễ xuất hiện trong
một khối khí. Những khác biệt theo phơng đứng của nhiệt độ nh vậy ảnh hởng
đến độ ổn định của khí quyển (chơng 6), đó l những mầm mống quan trọng về
phơng diện khả năng giáng thủy. Do đó, một số khối khí với những tính chất tự
nhiên của chúng, thờng hay tạo ra giáng thủy hơn so với những khối khí khác.
Các khối khí đợc phân loại theo các đặc trng nhiệt độ v độ ẩm của những
vùng nguồn. Dựa vo dung lợng ẩm, các khối khí có thể đợc phân chia thnh
khối khí lục địa (khô) hay khối khí biển (ẩm). Dựa theo nhiệt độ, chúng đợc phân
321
loại thnh khối khí nhiệt đới (nóng), khối khí cực đới (lạnh) hay khối khí Bắc Băng
Doơng (rất lạnh). Các nh khí tợng học sử dụng một hệ thống hai chữ cái viết tắt
để phân biệt các khối khí. Một chữ cái thờng c hoặc m chỉ thị tính chất ẩm, tiếp
sau l một chữ cái hoa T, P hoặc A để thể hiện nhiệt độ. Nh vậy, ví dụ, khối khí
lục địa cực đới đợc ký hiệu l cP, còn khối khí biển nhiệt đới l mT. Mặc dù tổ hợp
các chữ cái ny về lý thuyết dẫn tới 6 kiểu khối khí khác nhau, song khối khí biển
Bắc Băng Dơng không tồn tại trong tự nhiên, bởi vì các bồn nớc ở đó không đủ
lạnh để tạo ra không khí Bắc Băng Dơng (hơi nớc trong không khí ở đó bị kết
băng tại các nhiệt độ cực Bắc, lm mất đi phần lớn tính chất biển). Nh vậy, có tất
cả 5 kiểu khối khí. Các vùng nguồn chính của các khối khí hoạt động ở Bắc Mỹ đợc
thể hiện trên hình 9.1.
Hình 9.1. Các khu vực nguồn của những khối khí Bắc Mỹ
Nếu biết rằng nhiệt độ v độ ẩm thực tế của không khí thay đổi trong một biên
rộng, sự phân chia tùy tiện các khối khí thnh có 5 kiểu khối khí có thể tỏ ra có hạn
chế nhất định. Ví dụ nh, bạn sẽ xếp loại nh thế no đối với một ngy có nhiệt độ
20 oC (68 oF) v điểm sơng 10 oC (50 oF)? Thực sự không có câu trả lời cho trờng
hợp ny, bởi vì khó m xác định đó l không khí xích đạo hay không khí cực đới?
Hay nếu nhìn nhận vấn đề theo một cách khác, vậy thậm chí tại sao phải phân loại
các khối khí nh vậy? Đáp án cho câu hỏi ny l khái niệm khối khí sẽ hữu ích khi
chúng ta muốn phân định không khí ở hai bên của các biên ranh giới front, hoặc
khi chúng ta chỉ cần một mô tả đơn giản về khối khí l đủ.
Các khối khí không bị giữ vĩnh viễn ở các vùng nguồn của chúng; chúng có thể
di chuyển tới những vùng có điều kiện thời tiết ít thái cực hơn. Sự di chuyển của
một khối khí ra khỏi vùng nguồn của nó gây ra hai hệ quả: (1) khu vực m khối khí
di chuyển tới bị thay đổi mạnh về nhiệt độ v độ ẩm v (2) khối khí trở nên ôn hòa
hơn. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét một số kiểu khối khí, thời tiết m chúng tạo ra v
sự biến tính của chúng khi di chuyển.
Các khối khí lục địa cực đới (cP) v khối khí lục địa Bắc Băng D~ơng (cA)
Các khối khí lục địa cực đới (cP) đợc hình thnh trên các khối lục địa
rộng lớn ở các vĩ độ cao, nh miền bắc Canađa hoặc Siberia. Vo mùa đông, những
khu vực ny có ngy ngắn v độ cao Mặt Trời nhỏ. Những vùng đó còn thờng bị
tuyết trong mùa đông v do đó, phản xạ phần lớn phần lợng bức xạ Mặt Trời ít ỏi
đạt tới bề mặt. Sự kết hợp những hon cảnh ny thực sự lm cho không khí sẽ mất
năng lợng bức xạ trong mùa đông nhiều hơn l nhận đợc. Sự lạnh đi của lớp
không khí từ phía dới không chỉ lm hạ nhiệt độ không khí, m còn tạo ra nghịch
nhiệt bức xạ v những điều kiện ổn định cao.
Ngoi việc có nền nhiệt độ rất thấp, các khối khí cP mùa đông cũng rất khô.
Hãy nhớ lại từ chơng 5 rằng, không thể có nhiều hơi nớc tồn tại trong không khí
lạnh, v rằng điểm sơng (hoặc điểm đóng băng) luôn thấp hơn hoặc bằng nhiệt độ
không khí. Nh vậy, nếu nhiệt độ không khí rất thấp, ví dụ -30 oC (-22 oF) – một
kilôgam không khí ở độ cao mực nớc biển chỉ có thể chứa tối đa 0,24 g hơi nớc.
Nếu nh không khí cha bão hòa, lợng hơi nớc thực tế sẽ còn thấp hơn.
Sự kết hợp của các điều kiện không khí khô v độ ổn định cao bảo đảm rằng có
rất ít mây nếu nh có, hình thnh ở vùng nguồn của khối khí cP. Thêm nữa, sự
thiếu hụt hơi nớc sẽ lm suy giảm quá trình hấp thụ của khí quyển đối với bức xạ
tới của Mặt Trời. Do đó, mặc dù nhiệt độ thấp, ở các vùng nguồn của khối khí cP
thờng có bầu trời trong v có nắng. Mặt khác, độ ổn định của khí quyển cản trở
quá trình xáo trộn thẳng đứng, cho nên những chất ô nhiễm đi lên từ bề mặt sẽ tập
trung ở gần mặt đất. Do điều kiện thời tiết lạnh lm tăng mức tiêu thụ nhiên liệu
cấp nhiệt (thờng l than v dầu), cho nên không có gì ngạc nhiên l không khí cP
thờng gắn liền với chất lợng không khí thấp trên các khu vực đô thị.
Các khối khí cP mùa hè cũng tơng tự, nhng ít khắc nghiệt hơn. Tức l,
chúng ấm hơn v ẩm hơn so với mùa đông. Chúng có xu hớng giữ ổn định ở các vĩ
323
độ cao hơn so với các khối khí cP mùa đông, nên chúng không ảnh hởng nhiều tới
nhiều phần của Trái Đất nh những phiên bản của chúng trong mùa đông. Nghịch
nhiệt không hình thnh, bởi vì khối khí phát triển trên một mặt đệm không bị phủ
băng tuyết trong khi thời gian ban ngy di. Thực tế, không phải l hiếm thấy
chuyển động thăng đối lu, tạo ra những đám “mây tích thời tiết đẹp” (những đám
mây mảnh mai rải rác trong một bầu trời nói chung l trong xanh). Ngoi ra,
những khối khí ny đợc hình thnh trên đất liền v vì vậy, không có đủ độ ẩm để
cho giáng thủy đáng kể.
Không khí lục địa Bắc Băng Dơng (cA) lạnh hơn so với không khí lục địa
cực đới, nhng khác biệt giữa hai khối khí không chỉ l vấn đề về mức độ nhiệt độ
lạnh hơn. Quan trọng hơn, không khí cA v cP bị phân cách bởi một vùng chuyển
tiếp tơng tự nh front cực đới (chơng 8), đợc gọi l front Bắc Băng Doơng.
Không nh front cực đới có thể mở rộng lên cao đến vi kilômét tính từ bề mặt,
front Bắc Băng Dơng nông v thờng không cao quá 1 hoặc 2 km bên trên bề mặt
(hình 9.2). Do đó, chúng ta có thể cảm nhận sự thay đổi nhiệt độ khi có front Bắc
Băng Dơng đi qua, nhng front tơng đối nông ny không tạo ra một chuyển động
thăng mạnh có thể gây ma tuyết. Trong một vi trờng hợp hiếm hoi, không khí
cA có thể mở rộng xa về phía nam, nh tới vùng biên giới Canađa – Mỹ.
Hình 9.2. Front Bắc Băng D~ơng phân cách một lớp mỏng không khí Bắc Băng D~ơng cực lạnh
với không khí lạnh cực đới. Nó khác với front cực đới ở quy mô thẳng đứng hạn chế hơn của nó
Sự biến đổi của các khối khí cP. Khi rời khỏi vùng nguồn, các khối khí cP
đem theo thời tiết lạnh xuống những vĩ độ ô hòa hơn. Hình 9.3 minh họa sự di
chuyển của một khối không khí lục địa cực đới giả định. Trong hình 9.3a, biên front
nằm ở phía bắc của Minneapolis, v các nhiệt độ ô hòa hiện diện ở hầu khắp miền
trung nớc Mỹ. 24 giờ sau (hình 9.3b), biên của khối khí lục địa cực đới đã đi qua
Minneapolis, khiến cho nhiệt độ ở đây giảm đi 20oC (36 oF). Xa hơn về phía nam, St.
Louis v Birmingham có nhiệt độ ít thay đổi so với hôm trớc, bởi vì không khí lạnh
cha lấn xa về phía nam. Tuy nhiên, đến ngy thứ ba (hình 9.3c), không khí lạnh
đã xâm nhập tới vùng bờ vịnh Mexico v gây nên giảm nhiệt độ đáng kể tại St.
Louis v Birmingham, còn Minneapolis thì chịu ảnh hởng của không khí cực lạnh.
Hãy chú ý rằng, tại mỗi địa phơng nối tiếp, mức độ giảm nhiệt độ do front đi
qua đều ít hơn so với vị trí lân cận ở phía bắc. Nói cách khác, Minneapouis bị giảm
nhiệt độ nhiều nhất, còn St. Louis v Birmingham bị lạnh đi ít hơn. Đó l do không
khí cP dần dần biến tính khi rờ bỏ vùng nguồn của nó.
Hình 9.3. Một chuỗi bản đồ
thời tiết mặt đất cho thấy sự
di chuyển xuống phía nam
của khối khí lục địa cực đới
325
Các khối khí biển cực đới (mP)
Khối khí biển cực đới tơng tự nh khối khí lục địa cực đới, nhng ôn ho hơn
về nhiệt độ cũng nh tính chất khô. Không khí biển cực đới hình thnh trên Bắc
Thái Bình Dơng khi không khí cP di chuyển ra khỏi phần bên trong của lục địa
châu á. Hải lu nóng Nhật Bản bổ sung nhiệt v hơi nớc cho không khí lạnh, khô
v chuyển nó từ cP thnh mP. Các khối khí đang phát triển ny di c về phía đông
ngang qua Thái Bình Dơng, một bộ phận lớn đi qua vịnh Alaska trớc khi đạt tới
miền bờ phía tây của Bắc Mỹ. Chúng tiếp cận đến phía bắc của bờ tây Bắc Mỹ trong
suốt năm, nhng ảnh hởng đến vùng bờ tây California chủ yếu trong mùa đông.
Không khí biển cực đới cũng ảnh hởng đến nhiều vùng của miền bờ phía
đông, nhng cung cách tiếp cận miền bờ phía đông thì có khác. Kiểu không khí ny
gắn liền với hon lu của không khí quanh các xoáy thuận vĩ độ trung bình sau khi
chúng đi qua một vùng xoáy thuận. Do không khí xoay theo kiểu xoáy thuận (ngợc
chiều kim đồng hồ ở Bắc bán cầu), nó quét qua hệ thống áp thấp v tiếp cận vùng
ven biển từ phía đông bắc. Gió kết quả l những tro gió đông bắc quen thộc, gây
nên những cơn gió lạnh v tuyết rơi dy (xem chuyên mục 9-1: Chuyên đề: Các khối
khí biển xâm nhập miền đông của Bắc Mỹ).
9-1 Chuyên đề: Các
khối khí biển xâm nhập miền đông
Bắc Mỹ
Sự di chuyển của các khối khí gây ra
rất nhiều biến động đột ngột v nghiêm
trọng trong thời tiết. Các ví dụ về những
đợt chuyển đổi nh vậy không bao giờ kể
hết v luôn mới mẻ. Ba trờng hợp xảy ra
gần đây ở vùng đông bắc Hoa Kỳ v đông
Canađa cho thấy các đợt thay thế những
khối khí có thể ảnh hởng mạnh mẽ tới
môi trờng địa phơng nh thế no:
những cơn bão lớn trong mùa đông các
năm 1994, 1995 v 1996.
Đợt bão các ngy 2-4/3/1994
Dân c vùng bờ phía đông còn nhớ
nh in mùa đông năm 1993–1994 nh
một mùa đông băng giá nhất trong lịch
sử. Ngy 3/3, trận bão tuyết lớn thứ 15
của mùa đông năm đó đã đổ bộ đến vùng
đông bắc nớc Mỹ, tờ báo New York
Times gọi đó l “gió đông bắc mẫu mực”.
Cơn bão đã bắt đầu ở vùng đông nam
nớc Mỹ vo sáng ngy 2/3 (hình 1a v
1b). Một front lạnh kéo di từ áp thấp vĩ
độ trung bình xuống phía nam đến vịnh
Mexico v một front nóng chạy dọc theo
miền duyên hải đến mũi Hatteras, Bắc
Carolina. Hon lu ngợc chiều kim đồng
hồ trên khu vực đông nam nớc Mỹ mang
theo không khí biển cực đới từ Đại Tây
Dơng cùng với ma từ Maryland đến
Giorgia.
Đến ngy thứ hai (hình 1c v 1d), hệ
thống đợc tăng cờng v di chuyển đến
miền bờ New Jersey. Gió đông bắc mạnh
mang không khí nóng, ẩm từ ngoi khơi
vo, nó bị hội tụ khi nhập vo tâm áp
thấp. Sự kết hợp giữa độ ẩm phong phú
v hội tụ mạnh đã tạo nên ma tuyết lớn,
ở Martinsburg, Tây Virginia lên đến 34
cm. Cơn bão ny còn đợc cờng hóa tiếp
khi nó di chuyển về phía bắc đến New
England v các tỉnh ven biển của Canađa
(hình 1e v 1f), gây nên tổng lợng ma
tuyết mùa hơn 215 cm ở khu vực Boston.
Cuối cùng, hệ thống ny đã di chuyển ra
Đại Tây Dơng.
Đợt bão ngy 5/2/1995
Khác với mùa đông năm trớc, nửa
đầu mùa đông năm 1994–1995 ôn hòa
một cách bất thờng ở vùng đông bắc của
Hình 1. Trận bão tới từ phía đông bắc tháng 3 năm 1994. Các bản đồ ở mạn bên trái v ảnh mây vệ
tinh ở mạn bên phải cho thấy vị trí bão lúc 7 giờ sáng theo giờ chuẩn của miền đông
nớc Mỹ, với nhiệt độ nhìn chung dễ chịu
v ít tuyết. Tình hình đó kết thúc đột
ngột vo ngy 5 tháng 2 (hình 2). Giống
nh đợt bão tháng 3 năm 1994, hệ thống
ny di chuyển về phía bắc dọc theo bờ Đại
Tây Dơng v lôi cuốn theo không khí
biển cực đới từ ngoi khơi vo. Tâm của
hệ thống nằm ở gần vịnh Chesapeake vo
327
Hình 2. Trận bão tới từ phía đông bắc tháng 2 năm 1995
sáng ngy 4 (hình 2a v 2b) v mạnh lên
rất nhiều khi nó di chuyển trên New
England v các tỉnh ven biển của Canađa
vo ngy 5 (hình 2c v 2d). Trong khoảng
thời gian 24 h, áp suất tại tâm áp thấp đã
giảm từ 995 mb xuống 962 mb.
ở khu vực thnh phố New York, New
Jersey, tuyết bắt đầu rơi ngay từ giữa
đêm v đến sáng tổng lợng tuyết đo
đợc ở Princeton, New Jersey l 38 cm.
Mặc dù ma tuyết mạnh chỉ kéo di một
giờ kể từ khi bắt đầu, song gió bão lớn
kèm những cơn gió giật mạnh đến 80
km/h (50 dặm/h) đã gây nên lốc tuyết
mạnh. Dân chúng buộc phải ngừng đi lại
trong ngy hôm sau khi các đội bảo
dỡng đờng dọn tuyết v băng, v hng
nghìn hnh khách đã bị kẹt ở các sân bay
trong vùng do các chuyến bay trì hoãn ở
khắp miền đông bắc.
Đợt bão các ngy 6–8/1/1996
Không sự kiện lớn no trong các
năm 1994 v 1995 có thể so sánh với đợt
bão dữ dội tháng 1/1996. Nó đã bắt đầu
vo ngy 6/1 nh một rãnh thấp trải di
từ Louisiana đến phía tây Mariland v
đông Kentucky (hình 3a v 3b). Trong
vòng 24 giờ, bão đã mạnh lên v di
chuyển về phía đông đến Georgia – vùng
bờ Nam Carolina (hình 3c v 3d), v
tuyết rơi từ cỡ vừa đến mạnh trên một bộ
phận lớn của miền đông nớc Mỹ.
Đến sáng ngy 8/1 (hình 3e v 3f),
tuyết đã tích tụ dy đến 1 m ở Virginia v
Bắc Carolina. Vậy nhng một diện tích
rộng lớn của vùng đông bắc vẫn phải tiếp
tục hứng chịu những gì tồi tệ nhất m
một cơn bão có thể gây nên. Các sân bay ở
Hình 3. Cơn bão tới từ phía đông bắc tháng 1 năm 1996
khắp miền đông nớc Mỹ phải đóng cửa,
v ngời dân ở các thnh phố xa bão nh
St. Louis đã phải qua những đêm bất tiện
sau khi các chuyến bay nối với vùng bờ
miền đông bị hủy. Tất cả có 7600 chuyến
bay – một phần ba trong số đó đã có lịch
khởi hnh ở nớc Mỹ – đã bị hủy bỏ do
hậu quả của cơn bão.
Độ dy lớp tuyết đặc biệt lớn một
phần l do tuyết trong đợt bão ny đặc
biệt nhẹ v xốp – ở một số nơi, tỉ lệ tuyết
– nớc vợt quá 18:1; nói một cách khác,
329
18 cm tuyết tơng đơng với 1 cm giáng
thủy thực, cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ
thông thờng l 10:1. Đến thời điểm bão
tan, Philadelphia đã trải qua đợt tuyết
rơi kỷ lục cha từng thấy, tới 73 cm trên
mặt đất. Providence, Rhode Island đã
hứng chịu một đợt tuyết rơi lớn thứ hai
của vùng, còn Washington v New York
ghi nhận lợng tuyết dy đứng thứ ba
trong lịch sử.
ít nhất 86 ngời chết do hậu quả của
cơn bão. Song ngoi sự mất mát về ngời,
sự việc còn có thể trở nên tồi tệ hơn. Cũng
may l các dự báo đối với khu vực ny
của Cơ quan Thời tiết Quốc gia đã rất
chính xác về thời gian, vị trí v cờng độ
bão. Điều đó đã tạo cho dân chúng địa
phơng v các cơ sở bị hại có đủ thời gian
đối phó với sự tấn công điên cuồng của
không khí biển.
Hãy chú ý l các đặc trng của khối
khí l những yếu tố quan trọng trong tất
cả những cơn bão ny, nhng cha phải
l tất cả. Trong mỗi trờng hợp, đã có
những kiểu hon lu đặc trng xung
quanh một nhân áp thấp (xoáy thuận), nó
vận chuyển các khối khí theo một cách có
hệ thống. Mối liên hệ giữa các khối khí,
các front v các xoáy thuận l một chủ đề
quá lớn không thể đề cập ở đây – nhng
không sao, nó sẽ đợc đề cập ở chơng
tiếp sau.
Các khối không khí lục địa nhiệt đới (cT)
Không khí lục địa nhiệt đới (cT) hình thnh trong thời gian mùa hè trên
các vùng vĩ độ thấp, nóng, ví dụ nh vùng tây nam nớc Mỹ v bắc Mexico. Các
vùng hoang mạc, nơi những khối khí cT hình thnh, có rất ít nớc bề mặt v một
lợng thực vật cực tiểu có thể hút nớc từ trong đất ở phía dới. Nhập lợng bức xạ
Mặt Trời cực cao trong mùa hè. Điều ny cộng với sự thiếu hụt hơi nớc sẽ tạo nên
các nhiệt độ đất rất cao đốt nóng lớp không khí phía trên thông qua quá trình vận
chuyển nhiệt hiện. Kết quả l các khối khí ở đây vô cùng nóng v khô, thờng
quang mây.
Các nhiệt độ mặt đệm cực kỳ cao lm cho không khí sát mặt đất bị đốt nóng
mạnh, gây nên tốc độ giảm nhiệt độ rất cao v điều kiện bất ổn định. Tuy nhiên,
cho dù bất ổn định, các khối khí cT thờng quang mây do tính chất khô của nó. Ví
dụ, ta xét một khối khí nóng, khô ở gần bề mặt, với nhiệt độ tới 45 oC (113 oF) v
điểm sơng 0 oC (32 oF). Do nhiệt độ của một phần tử không khí cha bão hòa đang
nâng lên sẽ tiến dần đến điểm sơng với tốc độ 0,8 oC/100 m, cho nên không khí
phải bị nâng lên 5,6 km nó mới có thể trở nên bão hòa *. Nhng độ dy của lớp bất
ổn định có xu hớng nhỏ hơn nhiều so với độ cao ny, có nghĩa rằng, các phần tử tại
bề mặt có thể không đợc nâng lên đủ cao để mây phát triển. Mặt khác, nếu nh
lớp bất ổn định dy, hoặc nếu nh có lợng ẩm no đó trong không khí, thì dông tố
mạnh có thể phát triển. Dông còn có thể đợc hình thnh ở gần các đỉnh núi, nơi
đây chuyển động thăng đợc thúc đẩy nhờ các gió thung lũng hội tụ.
* Nhớ lại rằng DALR = 1,0 oC/100 m, nhng đồng thời tốc độ giảm điểm sơng = 0,2 oC/100
m. Do đó, một phần tử không khí cha bão hòa đang nâng lên sẽ tiến dần tới điểm sơng với
tốc độ 0,8 oC/100 m.
Các khối khí biển nhiệt đới (mT)
Các khối khí biển nhiệt đới (mT) phát triển trên các vùng nớc đại dơng
nhiệt đới nóng. Chúng nóng (tuy không nóng nh cT), ẩm v bất ổn định ở gần bề
mặt – lý tởng đối với sự phát triển mây v giáng thủy.
Không khí biển nhiệt đới có một ảnh hởng to lớn đến vùng đông nam nớc
Mỹ, đặc biệt trong mùa hè. Những khối khí ny hình thnh trên Đại Tây Dơng v
vịnh Mexico rồi di chuyển tới Bắc Mỹ. Khi không khí thổi vo đất liền, quá trình
đốt nóng do bề mặt nóng lm tăng tốc độ giảm nhiệt độ v khiến không khí thậm
chí cng bất ổn định hơn. Sự kết hợp giữa trữ lợng ẩm cao v độ bất ổn định gia
tăng thuận lợi cho sự phát triển của ma mạnh nhng ngắn, thờng l trên những
khu vực tơng đối hẹp, dới dạng các trận ma dông.
Sự đi qua của một xoáy thuận vĩ độ trung bình có thể cũng gây giáng thủy
trong khối khí mT. Ma dạng ny thờng phủ những khu vực rộng hơn v kéo di
lâu hơn so với những trận ma phát sinh từ chuyển động thăng cục bộ. Tuy nhiên,
trong cảc hai trờng hợp, một khối khí mT đang di chuyển về phía cực dần dần bị
biến đổi vì nó bị mất hơi nớc bởi giáng thủy. Do đó, điểm sơng giảm dần khi lên
phía bắc. Điều ny không có nghĩa rằng không khí trở nên khô khi nó đạt đến
Chicago hay Toronto, nhng nó chắc chắn bớt ngột ngạt hơn so với ở New Orleans
hay Miami.
Vùng tây nam nớc Mỹ thỉnh thoảng phải chịu ảnh hởng của không khí mT
bình lu vo đất liền từ vùng nhiệt đới Đông Thái Bình Dơng. Ngoi khơi Nam
California, dòng hải lu lạnh lm dịu không khí phía bên trên, khiến nó không còn
độ ẩm cao hoặc nhiệt độ cao nh không khí trên vùng đông nam nớc Mỹ. Tuy
nhiên, vo cuối mùa hè, hơi nớc đôi khi đợc đa lên phía đông bắc dới dạng
dòng phân kỳ mực cao từ các hệ thống bão nhiệt đới hoặc bão cấp hurricane ngoi
khơi bờ phía tây của Mexico. Tình huống ny có thể dẫn đến một lớp mây cao v độ
ẩm tăng lên ở phía nam California. Nó cũng có thể gây ra những cơn ma dông địa
phơng. Những hiện tợng ny thờng xảy ra bên trên các dãy núi v hoang mạc
nằm sâu trong đất liền, những cũng có khi lm chấm dứt nạn khô hạn mùa hạ
thờng thấy ở vùng duyên hải. Xa hơn về phía đông, ở Arizona v Đông California,
sự xuất hiện của khối khí mT trên các hoang mạc gây nên hiện tợng m ở địa
phơng ngời ta gọi l gió mùa Arizona (tuy tên gọi ny không thật chính xác).
Nh chúng tôi đã nhấn mạnh ở đầu chơng ny, việc phân loại các khối không
khí thờng không dễ dng. Khái niệm về một khối khí có ý nghĩa nhất khi áp dụng
cho những khối khí lớn, đợc phân cách bởi các đới ranh giới rộng tới hng chục (có
khi lên tới vi trăm) kilômét. Những đới ranh giới ny đợc phân chia thnh bốn
kiểu front.
Front
Các front l những đờng ranh giới phân cách các khối khí với nhiệt độ v các
đặc trng khác khác nhau. Thông thờng chúng thể hiện các ranh giới giữa khối
331
khí cực đới v không khí xích đạo. Chúng quan trọng không chỉ vì gây nên những
biến đổi nhiệt độ, m còn gây nên chuyển động thăng. Không khí lạnh thờng l
đậm đặc hơn không khí nóng, nên khi một khối khí lấn tới một khối khí khác, thì
hai khối khí không xáo trộn với nhau. Ngợc lại, không khí đặc tiếp tục duy trì ở
gần bề mặt v cỡng bức khối khí nóng hơn trợt lên phía trên. Những chuyển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ttkh_phan_3_4_2__064.pdf