Bài 1: Sự hình thành giao tử và sự thụ tinh. 3
1.1. Sự hình thành giao tử . 3
1.2. Sự di chuyển của giao tử và sự thụ tinh. 17
Bài 2: Phân cắt phôi bào và làm tổ. 24
2.1. Sự phân cắt phôi sau khi thụ tinh đến lúc làm tổ. 24
2.2. Diễn biến quá trình làm tổ của phôi. 27
Bài 3: Sự hình thành và phát triển các lá phôi . 30
3.1. Sự tạo ra đĩa phôi hai lá . 30
3.2. Sự phát triển phôi trong tuần thứ 3 – giai doạn phôi vị
62 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 710 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Phôi thai học đại cương - Trần Kim Thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội mô
Có 4 lớp:
- Hợp bào nuôi
- Tế bào nuôi
- MLK lõi
- Nội mô
45
vào trong hồ máu quanh các lông nhau. Những mảnh vụn này, được biết
như nút hợp bào, có thể đi vào vòng tuần hoàn mẹ và thường thoái hóa,
không gây ra bất kỳ ảnh hưởng gì cho mẹ.
Liên hệ lâm sàng
Tiền sản giật là 1 bệnh được đặc trưng bởi tăng huyết áp thai kỳ, có
protein niệu và phù. Nó có thể bắt đầu tại bất kỳ thời điểm nào khi thai từ
20 tuần và gây ra hậu quả thai chậm phát triển, thai chết hoặc tử vong ở
sản phụ. Bệnh biểu hiện là những rối loạn thuộc về lá nuôi liên quan đến
việc biệt hóa sai hoặc không hoàn toàn của tế bào lá nuôi, nhiều tế bào
không đi vào nội mô của động mạch xoắn để chuyển dạng biểu mô. Những
bất thường về tế bào này dẫn đến tăng huyết áp và còn những vấn đề khác
chưa được biết rõ. Nguyên nhân của tiền sản giật bao gồm hiện tượng
khảm của bánh nhau, trong đó có những nguyên bào nuôi bất thường về
gen hay bệnh ở sản phụ có thể gây ra những vấn đề về mạch máu như là
tiểu đường. Phụ nữ hút thuốc lá cũng gây tăng nguy cơ tiền sản giật.
2. ĐĨA ĐỆM VÀ MÀNG RỤNG ĐÁY (CHORION FRONDOSUM
AND DECIDUA BASALIS)
Trong những tuần đầu của thai kỳ, lông nhau có ở toàn bộ bề mặt của
lớp đệm (hình 4.1). Khi thai lớn lên, lông nhau phát triển vượt trội ở cực
phôi, đĩa đệm phát triển giống hình cây có nhiều nhánh (bush chorion).
Lông nhau cực đối phôi thoái hóa ở tháng thứ 3 làm cho lá đệm ở phía này
nhẵn (màng đệm nhẵn). (hình 4.3 và 4.4)
Khác biệt giữa cực phôi và cực đối phôi của màng đệm là cấu trúc
của màng rụng, chính là lớp chức năng của nội mạc tử cung, nó được bong
ra trong suốt thời kỳ sinh sản sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Màng rụng phủ
đĩa đệm cực phôi là màng rụng đáy, gồm lớp đặc với những tế bào lớn,
những tế bào màng rụng dự trữ 1 lượng lớn lipid và glycogen. Lớp này, đĩa
màng rụng liên kết chặt với lớp đệm. Lớp màng rụng phủ cực đối phôi là
màng rụng bao (hình 4.4. A). Với sự phát triển của túi đệm, lớp này trở nên
46
căng ra. Rồi sau đó, nó dính sát vào màng rụng thành ở cực đối phôi, xóa đi
khoang tử cung. Vì vậy, bánh nhau được hình thành từ đĩa đệm cực phôi và
màng rụng đáy. Còn màng ối và màng đệm hình thành màng nhau
(amniochorionic membrane) xóa đi khoang đệm (hình 4.4).
3. NHAU
3.1. Cấu trúc của bánh nhau
Bắt đầu tháng thứ 4, bánh nhau có 2 phần: (a) phần thai, được hình
thành từ đĩa đệm và (b) phần mẹ, được hình thành từ màng rụng đáy (hình
4.4.B). Ở phía thai, bánh nhau được giới hạn bởi đĩa đệm (hình 4.7); ở phía
mẹ thì nó được giới hạn bởi màng rụng đáy, đĩa màng rụng thì hầu như
dính chặt vào bánh nhau. Ở vùng chức năng, nguyên bào nuôi và tế bào
màng rụng cài vào nhau. Vùng này, được đặc trưng bởi màng rụng và
những tế bào hợp bào khổng lồ, giàu chất ngoại bào vô định hình. Tại thời
điểm này, hầu hết tế bào lá nuôi biến dạng. Giữa đĩa đệm và màng rụng là
hồ máu (khoảng quanh lông nhau) được đổ đầy bởi máu mẹ. Chúng được
hình thành từ những hốc trong lá nuôi hợp bào. Cây lông nhau phát triển
vào trong các hồ máu (hình 4.2 và 4.7).
Trong suốt tháng thứ tư và tháng thứ năm, màng rụng hình thành
vách ngăn màng rụng, các vách ngăn này hướng vào khoảng trống quanh
lông nhau nhưng không dính vào đĩa đệm. Chúng có lõi là mô của mẹ và
được phủ lên bề mặt một lớp hợp bào nuôi, chính lớp hợp bào nuôi tách
biệt máu mẹ trong hồ máu với các lông nhau của mô thai. Kết quả của việc
tạo vách này làm bánh nhau được phân chia thành nhiều múi (ngăn) (hình
4.8). Do các vách ngăn màng rụng không dính vào đĩa đệm nên máu mẹ có
thể lưu thông qua lại giữa các ngăn khác nhau.
47
Hình 4.3. Phôi 6 tuần. Túi ối và khoang đệm được mở ra để lộ phôi, minh
họa sự xuất hiện của nguyên bào nuôi ở cực phôi và ngược lại những lông
nhau nhỏ ở cực đối phôi. Ống túi noãn hoàng có khuynh hướng dài ra, túi
noãn hoàng có khuynh hướng thoái hóa.
Dây rốn
Ống túi noãn
hoàng
Túi noãn hoàng Màng ối Lá đệm
48
Hình 4.4. Sự dính của các màng thai lên thành tử cung. A. Kết thúc tháng
thứ 2. Thấy túi noãn hoàng nằm trong khoang đệm, giữa màng ối và màng
đệm. Tại cực đối phôi, lông nhau thoái hóa (màng đệm nhẵn). B. Cuối
tháng thứ 3, màng ối và màng đệm sát nhập vào nhau thành màng nhau và
khoang tử cung bị xóa dần bởi sự lớn lên của khoang ối và cuối cùng màng
rụng bao và màng nhau dính vào màng rụng thành.
Khi thai tiếp tục phát triển và lớn lên trong tử cung, bánh nhau
cũng lớn lên. Nó tăng sự gồ ghề của bề mặt và trải rộng hơn trong tử
cung, một thai kỳ đủ tháng bánh nhau có thể chiếm từ 15%-30% diện tích
bề mặt trong lòng tử cung. Sự tăng bề dày của nhau là kết quả của sự phát
triển cây lông nhau nhưng không ăn sâu vào mô mẹ.
3.2. Bánh nhau của thai đủ tháng
Bánh nhau đủ tháng hình đĩa với đường kính khoảng 15-25cm, có bề
dày khoảng 3cm, nặng khoảng 500-600g (người Việt trung bình khoảng
470g). Nhau bong ra khỏi thành tử cung khoảng 30 phút sau khi sinh. Bánh
nhau mới bong, nhìn mặt mẹ có thể thấy rõ 15-20 chỗ phình được gọi là
múi nhau, phủ bởi 1 lớp màng rụng đáy (hình 4.8). Các rãnh giữa các múi
nhau chính là các vách ngăn màng rụng.
Bánh nhau
Màng nhau dính vào
màng rụng thành
Màng rụng đáy
Đĩa đệm
Khoang
ối
Túi noãn
hoàng
Khoang
TC
Lá đệm
Màng
rụng bao
Khoang
đệm
Màng rụng
thành
Khoang ối
49
Mặt thai của bánh nhau được phủ hoàn toàn bởi đĩa đệm. Nhiều động
mạch và tĩnh mạch lớn tập trung hướng về dây rốn (hình 4.8). Màng đệm
được phủ bởi màng ối. Đôi khi, cuốngg dây rốn không nằm chính giữa
bánh nhau mà có thể lệch về một phía. Hiếm khi nằm ở rìa của bánh nhau.
3.3. Tuần hoàn nhau
Các ngăn của bánh nhau nhận máu của khoảng 80-100 động mạch
xoắn đi ra từ đĩa màng rụng và đổ vào các hồ máu (hình 4.7). Áp lực trong
các động mạch đổ máu giàu oxy sâu vào hồ máu. Khi áp suất giảm, máu
chảy trở lại đĩa đệm hướng về màng rụng vào đi vào các tĩnh mạch nội mạc
tử cung (hình 4.7).
Nhìn chung, hồ máu của bánh nhau trưởng thành chứa khoảng 150ml
máu, việc đổ đầy máu được lặp đi lặp lại theo chu kỳ khoảng 3-4 lần/phút.
Máu này di chuyển giữa các lông nhau màng đệm có tổng diện tích tiếp xúc
là khoảng 4 - 14m2. Tuy nhiên, sự trao đổi chất ở bánh nhau không diễn ra
ở tất cả các lông nhau mà chỉ có ở những vị trí có các mạch máu của thai
sát dưới lớp hợp bào phủ bên ngoài. Ở những lông nhau nhỏ, lớp hợp bào
thường chia nhiều vi lông nhau để tăng diện tích tiếp xúc giữa tuần hoàn
mẹ và con (hình 4.2. D). Hàng rào máu mẹ - con là màng ngăn cách máu
mẹ và máu con, nó được cấu tạo bởi 4 lớp: (a) lớp nội mô mạch máu của
con, (b) mô liên kết lõi lông nhau, (c) lớp lá nuôi tế bào, (d) lớp lá nuôi hợp
bào (hình 4.2.C). Tuy nhiên, từ tháng thứ 4 trở đi hàng rào này mỏng hơn
làm cho lớp tế bào nội mô mạch máu tiếp xúc sát với lớp hợp bào giúp tăng
khả năng trao đổi chất. Đôi khi người ta gọi nó là hàng rào nhau thai, nó thì
không là hàng rào thật sự vì trở về sau có nhiều chất đi qua màng này một
cách tự do hơn.
3.4. Chức năng của bánh nhau
Chức năng chính của bánh nhau là: (a) trao đổi chất, khí và những
sản phẩn chuyển hóa giữa máu mẹ và con, (b) sản xuất hormon.
50
Hình 4.5. Thai 19 tuần trong tử cung, hình còn cho thấy dây rốn và bánh
nhau. Lòng tử cung được lấp đầy. Thành của tử cung có 1 nhân xơ.
Thành tử cung
và màng thai Nhau
Dây rốn
Nhân xơ tử
cung
51
Hình 4.6. Thai 23 tuần trong tử cung. Đã cắt bỏ 1 phần thành tử cung và
màng ối. Trong hình chỉ mạch máu bánh nhau hội tụ về dây rốn. Dây rốn
quấn 1 vòng chặt quanh bụng, có khả năng gây ra bất thường ở thai nhi.
Mạch
đĩa
đệm
Cổ tử
cung
Dây rốn
52
Hình 4.7 Bánh nhau ở giai đoạn nửa sau thai kỳ. Các múi bánh nhau được
chia ra bởi vách màng rụng. Hầu hết máu quanh lông nhau trở về vòng
tuần hoàn mẹ bởi những tĩnh mạch nội mạc. Một phần nhỏ đi vào các múi
lân cận. Khoảng quanh lông nhau được lót bởi lá nuôi hợp bào.
Hình 4.8 Bánh nhau thai đủ tháng. A. Mặt thai, đĩa đệm và dây rốn được
phủ bởi màng ối. B. Mặt mẹ có các múi nhau. Có 1 vùng màng rụng được
bóc đi. Mặt mẹ của bánh nhau luôn được kiểm tra cẩn thận lúc sanh,
thường có một hoặc nhiều múi nhìn hơi trắng bởi vì việc hình thành mô sợi
quá mức và nhồi máu của một nhóm hồ máu.
3.4.1. Trao đổi khí
Trao đổi khí như là O2, CO2, CO được thực hiện bằng khuếch tán.
Thai lấy 20-30ml O2 trong 1 phút từ vòng tuần hoàn mẹ, việc cung cấp O2
Vách màng rụng
ĐM xoắn
Đĩa màng rụng TM nội mạc
Màng ối Đĩa đệm Bó mạch rốn Mạch đĩa
đệm
Màng ối
Dây rốn
Đĩa đệm
Múi nhau Màng rụng đáy đã lột bỏ
Mạch đĩa
đệm
53
này bị ngắt thì dẫn đến thai chết. Dòng chảy của máu ở bánh nhau quyết
định việc cung cấp O2, lượng O2 qua thai trong những tháng đầu phụ thuộc
vào sự phân tán, không phải khuếch tán.
3.4.2. Trao đổi chất dinh dưỡng và ion
Khả năng miễn dịch bắt đầu phát triển vào giai đoạn sau của tam cá
nguyệt thứ nhất. Thai có thể nhận kháng thể từ mẹ (IgG) vào tuần thứ 14.
Giai đoạn này thai tăng miễn dịch thụ động chống lại các bệnh nhiễm
khuẩn. Lúc mới sinh bé mới bắt đầu sản xuất IgG và đạt hiệu quả tối đa khi
bé 3 tuổi.
Tương quan lâm sàng
Ly giải nguyên hồng cầu thai và phù thai
Hơn 400 kháng nguyên hồng cầu đã được xác định và hầu hết không
gây ra ảnh hưởng trong suốt thai kỳ, một số ít có thể kích thích đáp ứng
miễn dịch của mẹ sinh kháng thể chống lại tế bào máu thai. Tiến trình này
là một ví dụ về isoimmunization, và nếu sự đáp ứng của mẹ có hiệu quả thì
kháng thể sẽ tấn công và làm ly giải hồng cầu thai gây tán huyết ở trẻ sơ
sinh. Bệnh này đôi khi được gọi là ly giải nguyên hồng cầu bởi vì ly giải
quá nhiều tế bào máu kích thích việc sản sinh nhiều hồng cầu non gọi là
nguyên hồng cầu. Trong 1 vài trường hợp, thiếu máu trở nên rất nghiêm
trọng gây phù thai dẫn đến thai chết (hình 4.9). Hầu hết trường hợp nặng là
do kháng nguyên từ nhóm máu hệ CDE (Rhesus). Kháng nguyên D hay Rh
là nguy hiểm nhất, nó sẽ biểu hiện sớm hơn và nghiêm trọng hơn ở những
lần mang thai kế tiếp. Đáp ứng kháng thể xảy ra trong những trường hợp
thai có Rh+ còn mẹ thì Rh- và tế bào hồng cầu của con đi vào hệ tuần
hoàn của mẹ do những vùng chảy máu nhỏ trên bề mặt của lông nhau lúc
sinh. Phân tích nước ối thấy có bilirubin, là sản phẩm tiêu hủy hemoglobin,
để đánh giá mức độ ly giải hồng cầu. Điều trị cho những đứa trẻ mắc bệnh
liên quan đến truyền dịch cho thai trong tử cung hoặc ở trẻ sơ sinh. Tuy
54
nhiên, bệnh thì có thể được ngăn chặn bởi việc xác định người phụ nữ có
nguy cơ bằng khảo sát kháng thể và điều trị với kháng D-immunoglobulin.
Kháng nguyên từ nhóm máu ABO cũng có thể gây đáp ứng kháng
thể nhưng ảnh hưởng thì không nhiều như nhóm Rh. Khoảng 20% trẻ sơ
sinh không tương hợp nhóm máu hệ ABO của mẹ, nhưng chỉ 5% có ảnh
hưởng trên lâm sàng. Những trường hợp này có thể điều trị 1 cách hiệu quả
sau khi sinh.
3.4.3. Sản xuất hormon
Cuối tháng thứ 4, bánh nhau sản xuất progesterone với 1 lượng đủ để
có tác dụng duy trì thai kỳ nếu hoàng thể thoái hóa. Có thể, tất cả hormon
được tổng hợp bởi hợp bào nuôi. Ngoài ra, bánh nhau còn sản xuất 1 lượng
hormon estrogen, chủ yếu là estriol, cho đến trước khi kết thúc thai kỳ thì
đạt mức tối đa. Mức estrogen này kích thích tử cung và tuyến vú phát triển.
Trong suốt hai tháng đầu của thai kỳ, hợp bào nuôi cũng sản xuất ra
hCG (human chorionic gonadotropin) để duy trì hoàng thể. Hormon này
được tiết vào trong nước tiểu của mẹ vào giai đoạn đầu của thai kỳ, sự hiện
diện của nó được dùng góp phần chẩn đoán có thai. Một hormon khác nữa
được sản xuất bởi bánh nhau là somatomammotropin. Nó giống như
hormon tăng trưởng giúp thai ưu tiên thu nhận glucose từ máu mẹ và đôi
khi làm mẹ bị tiểu đường. Nó cũng kích thích phát triển vú để tiết sữa.
Tương quan lâm sàng
Hàng rào nhau thai
Hầu hết hormon của mẹ không qua được nhau thai. Hormon có thể
qua là thyroxine nhưng chỉ với tỉ lệ thấp. Một vài progestin tổng có thể qua
nhau thai nhanh chóng và làm cho thai chuyển từ giới nam thành nữ. Thậm
chí nguy hiểm hơn là dùng estrogen tổng hợp – diethylstilbestrol cũng dễ
dàng qua nhau thai. Hỗn hợp này gây ra ung thư biểu mô của âm đạo và bất
thường của tinh hoàn thai nhi.
55
Mặc dù hàng rào nhau thai được xem như là một cơ chế bảo vệ chống
lại những yếu tố nguy hại, nhưng nhiều virus như rubella, cytomegalovirus,
Coxsackie, variola, varicella, measles và vius bại liệt – có thể dễ dàng qua
nhau thai. Một vài virus có thể gây nhiễm làm chết tế bào và dị tật bẩm
sinh.
4. MÀNG ỐI VÀ DÂY RỐN
Tại tuần thứ 5, các cấu trúc đi theo cuống phôi nguyên thủy(xem hình
4.10A.C): (a) ống mô liên kết, chứa đựng niệu nang và mạch rốn gồm 2
động mạch và 1 tĩnh mạch; (b) ống noãn hoàng (Vitelline duct), kèm theo
mạch máu của noãn hoàng; (c) kênh liên kết trong phôi và khoang ngoài
phôi là khoảng giữa màng ối và đĩa đệm (hình 4.10B)
Trong suốt thời kỳ phát triển, khoang ối lớn lên nhanh chóng làm
hẹp dần khoang đệm và khoang ối bắt đầu bao lấy cuống phôi nguyên thủy,
rồi sau đó phát triển thành dây rốn nguyên thủy (hình 4.10). Phần xa phôi,
dây rốn chứa đựng ống túi noãn hoàng và các mạch máu rốn. Đoạn gần, nó
chứa cả một vài quai ruột và vết tích của niệu nang (hình 4.10). Túi noãn
hoàng được tìm thấy trong khoang ối được liên kết với dây rốn bởi ống của
nó. Kết thúc tháng thứ 3, màng ối được mở rộng đến tiếp xúc với màng
đệm, xóa đi khoang đệm, túi noãn hoàng co lại và tiêu biến từ từ.
Khoang bụng tạm thời quá nhỏ so với sự phát triển nhanh của quai
ruột nên một số chúng bị đẩy ra khoảng ngoài phôi trong dây rốn. Những
quai ruột bị đẩy ra với hình thức thoát vị rốn sinh lý. Gần kết thúc tháng
thứ 3, quai ruột rút vào trong mình phôi, và khoang trong dây rốn bị tiêu
biến, có 1 chất nền bao quanh các mạch máu của dây rốn được gọi là thạch
Wharton. Mô này rất giàu proteoglycan có nhiệm vụ bảo vệ các lớp mạch
rốn. Thành của động mạch có cơ và có chứa nhiều sợi chun có khả năng co
dãn tốt khi dây rốn co dãn.
56
Hình 4.10. A. Phôi 5 tuần minh họa cấu trúc cuống phôi nguyên thủy. B.
Dây rốn nguyên thủy lúc thai 10 tuần. C. Cắt ngang qua vòng dây rốn. D.
Cắt ngang qua dây rốn nguyên thủy thấy quay ruột nhô ra trong dây rốn.
Tương quan lâm sàng
Bất thường dây rốn
Lúc sinh, dây rốn có đường kính khoảng 2cm và dài 50-60cm. Nó thì
ngoằn ngoèo dễ gây thắt nút. Dây rốn dài có thể quấn cổ của thai, sẽ có ảnh
hưởng khi phần còn lại ngắn có nguy cơ sanh khó do sức kéo thai về phía
bám của bánh nhau.
Khoang
ối
Ống túi
noãn hoàng
Khoang
ngoài phôi
Ống niệu
nang
Mạch rốn
Khoang
ngoài phôi
Quai ruột
Màng ối
Túi noãn
hoàng
Quai ruột
Mạch ống –
túi noãn
hoàng
Dây
rốn
NT
57
Bình thường có 2 động mạch và 1 tĩnh mạch dây rốn. Tuy nhiên, có
khoảng 1/200 trẻ sơ sinh chỉ có 1 động mạch rốn và trong số này có khoảng
20% có dị tật tim và mạch bẩm sinh. Mất động mạch rốn là do thiếu sót
trong quá trình tạo hoặc do thoái hóa sớm trong sự phát triển thai.
Dây màng ối
Việc xé rách màng ối tạo ra những dây màng ối mà có thể quấn vòng
một bộ phận của thai như là chi hoặc ngón, siết chặt gây ra cắt cụt đoạn
xaViệc tạo dây màng ối có thể do nhiễm trùng hoặc nhiễm độc ảnh
hưởng đến thai và màng thai hoặc cả hai. Dây màng ối hình thành từ màng
ối, như mô sẹo, siết chặt các cấu trúc của thai.
5. SỰ THAY ĐỔI CỦA BÁNH NHAU Ở GIAI ĐOẠN KẾT THÚC
THAI KỲ
Thời điểm kết thúc thai kỳ, nhiều sự thay đổi xảy ra ở bánh nhau có
thể làm giảm bớt sự trao đổi chất giữa hai vòng tuần hoàn. Những thay đổi
này bao gồm: (a) tăng mô sợi trong lõi của lông nhau, (b) dày màng đáy
mao mạch thai, (c) trao đổi chỉ có tác dụng ở các mao mạch nhỏ của lông
nhau, (d) lắng đọng mô sợi trên bề mặt của lông nhau trong vùng chức
năng và trong đĩa đệm. Mô sợi được hình thành quá mức gây ra nhồi máu ở
một vài múi nhau, nhìn thấy hơi trắng.
Hình 4.11 Bất thường
về chi gây ra bởi dây
màng ối. A Chi khuyết
vòng. B Cụt chi
58
6. DỊCH ỐI
Khoang ối được lấp đầy bởi dịch lỏng và sạch được sản xuất ra bởi
những tế bào màng ối, nguyên liệu được lấy từ máu mẹ. Lượng dịch ối
tăng từ 30ml (tuần 10) đến 450ml (tuần 20) và đến 800-1000ml (tuần 37).
Trong suốt những tháng đầu của thai kỳ, phôi treo lơ lửng bởi đây rốn của
nó trong dịch này, vai trò là cái đệm bảo vệ quan trọng. Dịch có chức năng
của dịch ối là: (a) giảm sóc (b) ngăn không cho sự kết dính của phôi với
màng ối, và (c) cho phép thai cử động dễ dàng. Thể tích dịch ối được thay
đổi mỗi 3 giờ. Từ đầu tháng thứ 5, thai nuốt nước ối khoảng 400ml/ngày.
Nước tiểu của thai cũng được thêm vào trong dịch ối ở tháng thứ 5 nhưng
hầu như chỉ là nước, khi bánh nhau có chức năng thì sẽ thải được những
chất chuyển hóa. Trong suốt quá trình chuyển dạ, dịch ối trong màng hình
thành đầu ối giúp cổ tử cung xóa mở.
59
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI THAI
60
61
62
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
1. Nhau được hình thành từ phần nào của mẹ và của con?
2. Tại sao máu thai và máu mẹ không hòa lẫn vào nhau?
3. Nhau phát triển như thế nào từ khi hình thành đến lúc sinh ra?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. PGS.Nguyễn Trí Dũng,. (2009). Phôi thai học đại cương. Nhà xuất
bản khoa học kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đỗ Kính và cộng sự. (2001). Phôi thai học người. Nhà xuất bản Y
học.
3. T.W. Sadler. Langman’ s medical embryology tenth edition, L.
Williams & Wikins
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_phoi_thai_hoc_dai_cuong_tran_kim_thuong.pdf