Bài giảng Một số nguyên lý về độc chất học môi trường
Độc chất học môi trường là một ngành khoa học trẻphát triển nhanh
trong 40 năm qua. Độc chất học môi trường liên quan đến việc nghiên cứu nguồn
gốc, con đường, sựchuyển hóa và ảnh hưởng của các hóa chất nguy hại trong
môi trường. Nghiên cứu ảnh hưởng nguy hại mởrộng bắt đầu từcá thểvà quần
thểsinh vật cho đến hệthống sinh thái. Nghiên cứu ảnh hưởng độc của các chất
gây ô nhiễm môi trường thật sựbắt đầu từthập niên 60. Vào những năm đầu tiên
của ngành nghiên cứu độc chất học môi trường, các nhà khoa học quan tâm đến
việc sửdụng các hóa chất, hoặc hỗn hợp hóa chất có khảnăng gây độc đặc biệt là
các hợp chất có nguồn gốc từarsen và thủy ngân. Trước đây, hầu nhưviệc áp
dụng arsen và thủy ngân đều mang tính tích cực bởi vì “tiện ích” của chúng như
là một chất độc đểgiảquyết các vấn đềcá nhân và chính trị.
Những người nghiên cứu về độc chất đầu tiên phải kể đến là các nhà vật
lý và giảkim. Một nhà vật lý người Thụy sĩParacedsus (1499-1541) đặc biệt nổi
tiếng với công thức tính mối tương quan giữa nồng độvà phản ứng. Ông đã quan
sát những bệnh nhân nhiễm độc ởnồng độthấp thì thấy nó có tác dụng tích cực,
trái lại ởnồng độcao thì phát hiện ra hiện tượng nhiễm độc. Nhà vật lý tiếp theo
là Orfila (1787-1853). Ông đã đăng tải một công trình quan trọng về độc tính của
các hợp chất tựnhiên, trong đó mô tảmối tương quan hiện tượng nhiễm độc của
bệnh nhân và thành phần các hóa chất có trong cơthểcủa người bệnh (các mô).
Sau đó ông đã nghiên cứu các hoạt tính của kháng thểvà cho rằng cơthểcon
người có thế đào thải các độc chất. Sau đó, nhiều công trình nghiên cứu về độc
chất đã được thực hiện trên độc vật. Và cũng từ đó, ngành độc chất học được
xem nhưlà một ngành khoa học. Cho đến giữa thếkỷ19, khi có sựphát triển
vượt bậc của hóa học, cùng với việc mởrộng quá trình tách chiết các hóa chất tự
nhiên và sản xuất những hợp chất nhân tạo mới, ngành độc chất bước qua một
giai đoạn phát triển mới. Cho dù độc chất học phát triển nhanh, nhưng vẫn dựa
TS. Lê Quốc Tuấn
Khoa Môi Trường và Tài Nguyên, ĐH Nông Lâm TP.HCM
vào 2 nền tảng sau:
1. Kiểm nghiệm các loại dược phẩm mới
2. Xác định ảnh hưởng độc tiềm ẩn từcác hợp chất tựnhiên và nhân tạo.
Kỷnguyên này đánh giá sựkhởi đầu của độc ngành độc chất học công
nghiệp, liên quan trực tiếp đến sức khỏe công nhân và nơi làm việc. Trong suốt
quá trình phát triển hóa học, người ta đã nhận diện được độc chất học động vật ở
Châu âu và Bắc Mỹdo một lượng lớn hóa chất được sửdụng đã gây nên sựchết
của sinh vật hoang dã. Sựô nhiễm môi trường đã khiến nhiều chính phủphải có
những chính sách phù hợp để đánh giá và kiểm soát các chất gây ô nhiễm tiềm
năng trong nước thải công nghiệp. Tuy nhiên, cho đến năm 1962, một cuốn sách
của Carson với tiêu đề“Mùa Xuân thầm lặng” (Silent Spring), một sựnhận diện
về độc tính môi trường, được xuất bản. Cuốn sách mô tả ảnh hưởng của các hóa
chất độc hại lên đời sống hoang dã, hay còn gọi là sựbiến mất của các loài chim
ven các dòng sông.
Cuối thập niên 60, Truhaut sửdụng thật ngữ“Độc học sinh thái”
(Ecotoxicology) đểmô tảngành nghiên cứu về độc tính môi trường. Truhaut đã
định nghĩa độc học sinh thái nhưlà một nhánh của độc chất học mà nó tập trung
vào ảnh hưởng độc của các hợp chất tựnhiên và nhân tạo lên cơthểsống.
Truhaut chính thức phân biệt giữa độc học truyền thống và độc học sinh thái và
mô tả độc tính sinh thái qua các bước sau:
1. Sựthâm nhập, phân phối và sốphận của các chất gây ô nhiễm trong môi
trường
2. Sựthâm nhập và sốphận của các chất gây ô nhiễm trong sinh vật của hệ
sinh thái
3. Các ảnh hưởng có hại của hóa chất lên các cấu thành của hệsinh thái (bao
gồm cảcon người)
Mỗi một giai đoạn đều phức tạp bởi sựchuyển hóa hữu sinh và vô sinh
của các hợp chất ban đầu. Đến giữa thập niên 70 các nhà khoa học bắt đầu nhận
ra rằng kiểm soát độc chất trong môi trường phải từcác nguồn do con người tạo
ra, qua việc thu thập sốliệu vềsốlượng các hợp chất trong môi trường đất và
nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_2_r1__.pdf
- chuong_2_r1__2817.pdf