Bài giảng môn học Địa lý cảnh quan - Chương 2: Các quy luật địa lý chung của Trái Đất

Vỏ Trái đất nói chung hay vỏ cảnh quan nói riêng hoặc từng bộ phận của nó là một hệ thống động lực.

Các hệ thống này không ngừng vận động và phát triển theo những qui luật chung nhất tạo nên sự thống nhất giữa các hợp phần cấu tạo và sự phân hóa thành các bộ phận lãnh thổ nhỏ hơn.

 

ppt60 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 3654 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng môn học Địa lý cảnh quan - Chương 2: Các quy luật địa lý chung của Trái Đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 3: Các qui luật địa lý chung của Trái đất Vỏ Trái đất nói chung hay vỏ cảnh quan nói riêng hoặc từng bộ phận của nó là một hệ thống động lực. Các hệ thống này không ngừng vận động và phát triển theo những qui luật chung nhất tạo nên sự thống nhất giữa các hợp phần cấu tạo và sự phân hóa thành các bộ phận lãnh thổ nhỏ hơn. Các qui luật địa lý chung của Trái đất trình bày trong chương này gồm: 1) Tính hoàn chỉnh của Vỏ cảnh quan 2) Sự tuần hoàn của vật chất và năng lượng của Vỏ cảnh quan 3) Tính nhịp điệu của Vỏ cảnh quan 4) Qui luật địa đới 5) Qui luật phi địa đới. 3.1 Tính hoàn chỉnh của vỏ cảnh quan Vỏ cảnh quan Trái đất là một thể thống nhất và hoàn chỉnh về mặt cấu trúc thành phần, nhưng không đồng nhất về mặt lãnh thổ, có sự phân dị thành các địa tổng thể với qui mô khác nhau. Bất kỳ địa tổng thể ở qui mô nào cũng là một hệ thống có các đặc điểm sau: 1) Gồm nhiều thành phần cấu tạo và giữa chúng có mối quan hệ vật chất và năng lượng. 2) Có mối liên hệ với bên ngoài và do đó mỗi địa tổng thể là một bộ phận của một hệ thống lớn hơn. 3) Sự thống nhất nội hệ thống chỉ có tính chất tương đối, do đó mỗi địa tổng thể lại có thể phân hóa thành những địa tổng thể nhỏ hơn, tạo nên đặc tính cấu trúc bậc của hệ thống. 3.1.2 Sự thống nhất của hệ thống vật liệu Mỗi thành phần của vỏ cảnh quan (nền đá, địa hình, thổ nhưỡng, nước, thế giới hữu cơ, v.v…) tồn tại và phát triển theo những qui luật riêng của nó. Tuy nhiên từng thành phần không tồn tại và phát triển một cách cô lập, mà chúng chịu ảnh hưởng của các thành phần khác và tác động ảnh hưởng của mình tới các thành phần khác. Sự trao đổi không ngừng vật chất và năng lượng giữa các thành phần riêng lẻ qui định tính hoàn chỉnh của vỏ cảnh quan. Sự phối hợp hoạt động của tất cả các thành phần biến chúng thành một hệ thống vật liệu thống nhất, hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh của hệ thống này rất lớn và mang đặc tính chung đến mức mà nếu trong tổng thể địa lý hay trong vỏ cảnh quan chỉ một khâu nào đó thay đổi thì tất cả các khâu còn lại cũng thay đổi theo. Ví dụ: Sự gia tăng dioxit cacbon trong khí quyển Trái đất nóng lên Băng ở vùng cực và trên núi cao sẽ tan dần Mực nước biển dâng cao Các vùng đất ven biển bị ngập Địa bàn sinh sống của con người và nhiều loại sinh vật bị thu hẹp. Qui mô thay đổi của toàn bộ hệ thống, về căn bản, phụ thuôc vào qui mô thay đổi của các bộ phận cấu thành riêng biệt. Do sự khác nhau về chất nên tốc độ phát triển của các thành phần Vỏ cảnh quan khác nhau. Tùy theo mức độ nhậy cảm đối với tác động của tự nhiên, có thể xắp xếp tính bảo thủ của các thành phần theo thứ tự giảm dần như sau: Cơ sở nham thạch - địa hình - các hiện tượng khí hậu - nước - thổ nhưỡng - thực vật - động vật. Ví dụ: trong thời kỳ băng hà, mực nước đại dương hạ thấp đã ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến đến toàn bộ Trái đất (băng hà kỷ Đệ tứ làm cho mực nước đại dương hạ thấp tới 110m). Ảnh hưởng trực tiếp Làm lộ ra những diện tích rộng lớn của thềm lục địa dẫn đến: Địa hình rìa các đại lục có những nét khác biệt. Một số quần đảo hợp thành các đảo, một số đảo nhập vào các đại lục Một số đại lục rời rạc được nối liền với nhau bởi các con đường cạn Theo các con đường này động vật và thực vật trên cạn có thể di cư dẫn đến diện phân bố của chúng bị thay đổi Những con đường cạn trở thành vật chướng ngại không thể vượt qua đối với các sinh vật dưới nước Ảnh hưởng gián tiếp Sự hạ thấp của mực nước đại dương dẫn đến sự hạ thấp mực xâm thực cơ sở của các sông đổ ra đại dương, gây ra sự tăng cường của xâm thực sâu, các sông suối khoét sâu, chia cắt bề mặt địa hình nổi mạnh mẽ hơn. Ngược lại, vào thời kỳ gian băng: Nước băng tan của băng hà trở lại đại dương làm cho mực nước đại dương tăng lên Các biển ven lục địa xuất hiện, các đại lục và các đảo tách rời Mực cơ sở xâm thực của các sông nâng cao dẫn đến quá trình tích tụ trầm tích Sự di cư của các hệ thực vật và động vật cạn bị hạn chế, sự di cư của các sinh vật dưới nước tự do hơn Các ám tiêu san hô bắt đầu tăng tiến. Như vậy Vỏ cảnh quan về toàn thể là một hệ thống đồng thời vừa hoàn chỉnh vừa không cân bằng. 3.1.3 Ý nghĩa thực tiễn Mọi hoạt động kinh tế của xã hội loài người thực tế là sự can thiệp vào bước tiến triển xác định của quá trình tự nhiên trong Vỏ cảnh quan. Việc thay thế thực vật hoang dại bằng thực vật gieo trồng, việc xây dựng các đập trên sông, việc dẫn nước tới các miền hạn hán, việc làm khô các đầm lầy vv…nhất định sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ tổng thể tự nhiên của cảnh quan và trải qua một thời gian có thể dẫn đến những kết quả bất ngờ, trong đó có cả các kết quả trái với ý muốn của con người. Ví dụ: sau khi đập thủy điện Trị An trên sông Đồng Nai được xây dựng: Đáy sông dưới đập bị xâm thực sâu 0,5-1,0m do thiếu hụt trầm tích Đáy sông xâm thực hạ sâu dẫn đến sự xói lở bờ sông, kết quả là các vườn cây, đồng ruộng thậm chí cả nhà cửa của dân cư hai bờ sông cũng bị phá hủy. Ngoài ra sự điều tiết nước của nhà máy thủy điện đã làm cho ranh giới mặn-ngọt ở vùng hạ lưu bị thay đổi, kết quả là thực vật và động vật đã phải di cư theo sự biến động của môi trường. Như vậy có thể nói, những tác động của con người đã gây ra trong tự nhiên một chuỗi các phản ứng dây chuyền độc đáo với hàng loạt các thay đổi tự động. Qui luật về tính thống nhất và hoàn chỉnh của Vỏ cảnh quan báo trước sự cần thiết trước hết phải đánh giá tác động môi trường một cách tỉ mỉ bất kỳ một lãnh thổ nào khi muốn sử dụng chúng vào các mục đích kinh tế dưới hình thức này hay hình thức khác. 3.2 Qui luật tuần hoàn vật chất và năng lượng 3.2.1 Khái niệm Một trong những đặc điểm quan trọng và đặc trưng của Vỏ cảnh quan Trái đất là sự tồn tại ở đó những vòng tuần hoàn của vật chất và năng lượng có liên quan tới vật chất đó. Mỗi đối tượng vật chất đều chứa đựng năng lượng-đó là khả năng sinh công trong quá trình vận động. Bởi vậy năng lượng được xem là động lực của mọi quá trình, làm biến đổi vật chất từ dạng này sang dạng khác. “Các nguồn năng lượng làm quay tuốc bin nhà máy thủy điện, làm quay cánh quạt gió các cối xay gió hay đẩy các thuyền buồm đi tới, làm chạy máy móc khi ta đốt than hoặc xăng dầu, khi đốt để nấu nướng, sưởi ấm, v.v…chỉ là những năng lượng mà trái đất giữ lại từ hai nguồn năng lượng nội sinh và ngoại sinh - năng lượng mặt trời” Năng lượng từ Mặt trời là nguồn năng lượng chính của mọi quá trình diễn ra trong Vỏ cảnh quan. Nguồn năng lượng này là động lực thúc đẩy sự trao đổi nhiệt trong khí quyển và trong thủy quyển, tạo nên sự cân bằng nhiệt trên trái đất và trả năng lượng dư thừa vào trong vũ trụ. Ngoài sự trao đổi năng lượng, còn đồng thời có sự trao đổi vật chất của các nguyên tố hóa học với nhau, nhất là ôxi, hidrô, cacbon, nitơ v.v… Ở nhiều qui mô khác nhau, có vô số vòng tuần hoàn năng lượng và vật chất hết sức đa dạng như vòng tuần hoàn của nước, vòng tuần hoàn của đá, vòng tuần hoàn sinh vật, vòng tuần hoàn của không khí, vòng tuần hoàn của các hải lưu, vòng tuần hoàn của khí cacbonic, của đạm hay của oxi v.v… 3.2.2 Vòng tuần hoàn của đá Bằng nghiên cứu các vết lộ đá ở nhiều vùng khác nhau, các nha khoa học địa chất đã đi đến kết luận là các đá trong vỏ Trái đất tuân theo một hình mẫu được lặp đi lặp lại qua suốt các thời kỳ địa chất. Chuỗi các sự kiện này được Hutton gọi là chu kỳ địa chất hay vòng tuần hoàn của đá. Mặc dù vòng tuần hoàn này không có điểm bắt đầu và kết thúc xác định, nhưng có thể khái quát như sau: Hình 3.1 Sự tuần hoàn của đá gồm: trầm tích-tạo đá trầm tích-biến đổi thành đá magma hay biến chất-tạo núi-bào mòn, vận chuyển và tích tụ trầm tích Trầm tích bở rời ban đầu được lắng đọng thành những lớp nằm ngang liên tục theo nguyên lý Steno. Các lớp đá trầm tích bở rời dưới đáy bị chôn vùi và nén chặt tạo thành đá trầm tích-đó là quá trình thành đá. Các đá trầm tích bị lún chìm sâu hơn, chịu nhiệt độ và áp suất cao hơn bị biến dạng, hoặc nóng chảy tạo nên magma ( Magma cũng có thể được sinh ra không phải từ đá trầm tích). Các đá cũng có thể bị biến đổi mạnh mẽ nhưng chưa tời điểm nóng chảy thì được gọi là đá biến chất. Sự cộng sinh chặt chẽ của hiện tượng biến dạng, biến chất, hoạt động magma và các vòng đai núi cho thấy các hoạt động này liên hệ với nhau và chúng được hình thành trong quá trình tạo núi. Các dải núi trồi lên chịu tác dụng của những tác nhân phá hủy như trọng lực, mưa gió, băng giá, núi dần dần hạ thấp do bào mòn. Vật liệu trầm tích vụn bở do bào mòn được sông suối vận chuyển vào đại dương và một vòng tuần hoàn mới lại tiếp tục ở một địa điểm khác. 3.2.3 Vòng tuần hoàn của nước Nước trên Trái đất tồn tại trong một khoảng không gian gọi là thủy quyển. Khoảng không gian này phát triển đến độ cao 15 km trong bầu không khí và đi sâu xuống mặt đất khoảng 1 km trong thạch quyển. Nước vận động trong thủy quyển qua những con đường vô cùng phức tạp cấu tạo thành vòng tuần hoàn của nước (còn gọi là chu trình thủy văn), hình 3.1 Hình 3.2 Vòng tuần hoàn của nước Nước bốc hơi từ đại dương và lục địa trở thành một bộ phận của khí quyển. Hơi nước được vận chuyển vào bầu không khí, bốc lên cao cho đến khi chúng ngưng kết và rơi trở lại mặt đất hoặc mặt biển. Lượng nước rơi xuống mặt đất có thể bị ngăn giữ lại bởi thực vật, chảy trên mặt đất thành dòng tràn trên các sườn dốc, thấm xuống đất, chảy trong các tầng sát mặt đất và chảy vào các dòng sông thành dòng chảy mặt. Phần lớn lượng nước bị giữ lại bởi thảm thực vật và dòng chảy mặt sẽ quay trở lại bầu khí quyển qua con đường bốc hơi. Lượng nước thấm trong đất có thể thấm sâu hơn xuống các địa tầng bên dưới để cấp nước cho kho nước ngầm, sau đó xuất lộ thành các dòng suối hoặc chảy dần vào sông ngòi thành dòng chảy mặt và cuối cùng đổ ra biển hoặc bốc hơi vào khí quyển. Nghiên cứu các vòng tuần hoàn khác 3.3 Qui luật nhịp điệu 3.3.1 Khái niệm Vòng tuần hoàn vật chất-năng lượng và các quá trình địa lý diễn ra trong vỏ cảnh quan có sự lặp lại theo thời gian với sự phát triển theo cùng một hướng gọi là tính nhịp điệp của Vỏ cảnh quan (hay qui luật nhịp điệu). Có hai kiểu nhịp điệu: 1) nhịp điệu theo thời kỳ là nhịp điệu có thời gian kéo dài đồng nhất như ngày đêm, mùa, năm tháng… 2) nhịp điệu theo chu kỳ là nhịp điệu có thời gian dao động quanh một trị số trung bình như chu kì hoạt động mạnh của mặt trời là 11 năm nhưng có thể dao động 9-11 năm một lần. 3.3.2 Nguyên nhân Khó khăn trong việc nghiên cứu các hiện tượng có nhịp điệu phổ biến trong tự nhiên là ở chỗ các nhịp điệu có sự khác nhau về khoảng dài và nguồn gốc phát sinh không đồng nhất. Dưới đây xem xét một số nguyên nhân tạo nên tính nhịp điệu của Vỏ cảnh quan 1) Sự vận động của Trái đất Nhịp điệu thuộc nhóm này gồm: Nhịp điệu ngày (do sự tự quay của trái đất) Nhịp điệu mùa (trái đất quay xung quanh mặt trời). Chu kì 41 ngàn năm với sự thay đổi các vành đai khí hậu tương quan với sự thay đổi góc nghiêng của trục trái đất. Chu kì 100.000 năm với sự biến đổi nhiệt độ trên trái đất tương quan giữa sự thay đổi quỹ đạo quay của trái đất từ gần tròn sang bàu dục. 2) Thủy triều và trọng lực Sự thay đổi của lực gây ra thủy triều, hoặc sự không đồng đều của trọng lực hình thành nhóm kiểu nhịp điệu có khoảng dài khác nhau: 1 năm, 2 năm, 8, 9 năm, gần 111 năm và 1800-1900 năm. 3) Hoạt động của Mặt trời Sự bùng nổ nhiều hay ít trên bề mặt mặt trời tương quan với các nhịp điệu có khoảng dài trung bình 2-3 năm, 5-6 năm, 11năm, 22-23 năm, 30-35 năm và 80-90 năm. 4) Vận động kiến tạo Liên quan đến hoạt động kiến tạo của vỏ Trái đất có nhịp điệu trong quá trình lắng đọng các đá trầm tích thể hiện bằng sự lặp lại các tập đá theo mặt cắt thẳng đứng. Nhịp điệu của động đất khoảng 20-30 năm và Nhịp điệu có tính chất chu kỳ trong lịch sử địa chất của Trái đất khoảng 150-240 triệu năm. 3.3.3 Biểu hiện 1) Nhịp điệu ngày đêm là nhịp điệu dễ thấy nhất, phổ biến nhất, thể hiện ở hoạt động của mọi sinh vật hay con người: dao động của nhiệt độ không khí, gió đất và gió biển, hô hấp của cây. 2) Nhịp điệu mùa (nhịp điệu năm) Sự thay đổi các mùa trong năm: biến đổi khí hậu, thủy văn (đóng băng, tan băng, nước lũ, nước cạn), các quá trình địa mạo, thổ nhưỡng, sự di cư của một số động vật, sự thay đổi hình dáng bên ngoài của thực vật. Nhịp điệu mùa có ý nghĩa rất lớn đổi với hoạt động kinh tế của con người. 3) Nhịp điệu nội thế kỷ Nhịp điệu nội thế kỷ rõ nhất là chu kì 11 năm và chu kỳ 30 – 50 năm. Chu kì 11 năm như sự hoạt động mạnh của mặt trời, vòng tròn trong thân cây gỗ, trầm tích bùn của các hồ, sự sinh sản hàng loạt của châu chấu, sự làn tràn của một số bệnh truyền nhiễm… Chu kỳ 30-50 năm là chu kì biến đổi khí hậu trái đất (nóng ẩm lên hoặc khô lạnh đi), sự dao động mực nước sông hồ, mực nước đại dương, sự ấm lên của bắc cực… Còn chu kì lũ lớn trên các sông là 12 hoặc 60 năm (Ở việt nam vào những năm thìn). 4) Nhịp điệu ngoài thế kỷ Nhịp điệu ngoài thế kỷ kéo dài hàng trăm năm đến vài ngàn năm: Chu kì thay đổi lực sinh ra thủy triều khoảng 1800 năm (khi mặt trời, mặt trăng và trái đất cùng nằm trên một mặt phẳng và trên một đường thẳng), Chu kì băng hà khoảng 100.000năm, 5) Chu kỳ kiến tạo Chúng ta đã biết rằng bề mặt Trái đất nâng lên và hạ xuống trong quá trình chuyển đổi tinh tế của sự cân bằng thẳng đứng được biết là đẳng tĩnh. Học thuyết kiến tạo mảng đã chứng minh các thành phần di chuyển ngang xuất hiện như một phần của chu kì kiến tạo, đó là sự di chuyển thạch quyển giòn trên đỉnh quyển mềm. 3.4 Qui luật địa đới 3.4.1 Khái niệm Tính chất độc đáo nhất của cấu trúc Vỏ cảnh quan Trái đất đó là sự biến đổi có qui luật của các quá trình địa lý và tổng thể tự nhiên (hệ địa lý) từ xích đạo đến hai cực. Sự biến đổi đó mang tính địa đới và được xác nhận là một qui luật địa lý chung. 3.4.2 Nguyên nhân Nguyên nhân căn bản hình thành tính địa đới là do Trái đất có dạng hình cầu làm cho tia chiếu của Mặt trời tới bề mặt Trái đất có góc nhỏ dần về hai cực, dẫn đến sự phân bố không đều của bức xạ mặt trời theo vĩ độ. 3.4.3 Các biểu hiện Do sự phân bố có tính địa đới của năng lượng bức xạ mặt trời mà các yếu tố, các quá trình tự nhiên khác cũng mang tính địa đới như: nhiệt độ, hình thế khí áp và hệ thống gió, các quá trình mưa và bốc hơi, các kiểu khí hậu, độ mặn của biển và đại dương, quá trình phong hóa hình thành đất, thực vật, động vật, đặc điểm các hệ thống thủy văn, quá trình địa mạo và dạng địa hình ngoại sinh và ngay cả trong sự hình thành đá trầm tích cũng thể hiện nét địa đới. Lưu ý rằng tính địa đới biểu hiện rõ rệt nhất ở các vùng đất bằng phẳng, rộng lớn như ở các đồng bằng Nga và Canađa: Các đới khí hậu, thổ nhưỡng, thực vật ở đây kéo liên tục từ tây sang đông và thay thế nhau từ bắc xuống nam một cách có qui luật: đới đài nguyên, đới đài nguyên-cây bụi, đới taiga, đới thảo nguyên rừng, đới thảo nguyên). 3.5 Qui luật phi địa đới 3.5.1 Khái niệm Sự phân dị của các quá trình địa lý và tổng thể tự nhiên do sự biến đổi địa hình bề mặt Trái đất. Địa hình bề mặt Trái Đất (yếu tố phi địa đới) nói chung phá vỡ hoặc làm lệch tính địa đới theo vĩ độ (sự phân bố của đới ngang) và thay vào đó làm xuất hiện tính đai cao. X.V.Kalexnik phân biệt: ”cái gì phụ thuộc vào sự phân bố bức xạ mặt trời thì có tính địa đới, cái gì phụ thuộc vào tác dụng của lực bên trong thì có tính phi địa đới”. 3.5.2 Nguyên nhân Nguồn năng lượng của quá trình phi địa đới chủ yếu là nguồn năng lượng nội sinh: năng lượng do sự phân dị trọng lực, năng lượng phát sinh của các dòng đối lưu nhiệt trong mantle (nguyên nhân gây sự dịch chuyển các mảng thạch quyển), ngoài ra nguồn năng lượng do sự phân hủy phóng xạ chủ yếu là Uran và Thori ở vỏ cứng của Trái Đất (sinh ra tổng cộng 4,3 x1020 cal/năm). 3.5.3 Biểu hiện 1) Sự phân bố của lục địa và đại dương Sự biểu hiện chủ yếu nhất của quá trình phân dị phi địa đới là sự phân chia bề mặt trái đất thành khối nhô lục địa và các vùng trũng đại dương, Đất nổi chiếm 29% diện tích bề mặt, đại dương chiếm 71%, Do những khác biệt về tính chất vật lý của bề mặt rắn và của tầng nước đại dương mà các khối khí khác nhau được hình thành trên các bề mặt ấy. Sự di chuyển các khối khí (lục địa – đại dương) xuất hiện làm phức tạp hóa các hoàn lưu chung (địa đới) của khí quyển. Nguồn năng lượng nội sinh gây nên những vận động của các mảng vỏ Trái Đất làm thay đổi sự phân bố lục địa và đại dương, tạo nên các dãy núi cao, các vực biển sâu, các vành đai động đất, núi lửa, các nếp uốn, đứt gãy, các hiện tượng biển tiến, biển thoái 2) Địa ô (qui luật theo kinh độ) Sự phân bố đất liền và biển làm cho khí hậu phân hóa từ Đông sang Tây, làm cho các đới cảnh quan không đồng nhất theo chiều ngang, càng vào trung tâm lục địa thì mức độ độ lục địa của khí hậu càng tăng. Sở dĩ như vậy là vì trung tâm lục địa càng xa đại dương thì lượng ẩm trong không khí càng ít và lượng mưa cũng giảm đi. Sự phân dị khí hậu theo chiều dọc lục địa (theo hướng kinh tuyến) như thế của đới được gọi là địa ô (hay sectơ). 3) Đai cao (qui luật đai cao) Ở các miền núi tính địa đới theo vĩ độ trở nên phức tạp hơn bởi tính vòng đai theo độ cao. Tính vòng đai theo độ cao (qui luật đai cao hay tính địa đới theo chiều thẳng đứng) được liệt vào trong số các quy luật địa lý tự nhiên phổ biến. Sự hình thành tính vòng đai theo độ cao là do sự thay đổi tình trạng cân bằng nhiệt – sự giảm nhiệt và sự thay đổi lượng mưa theo chiều cao (Cường độ bức xạ mặt trời tăng lên mạnh mẽ theo độ cao, bởi vì bề dày và mật độ của quyển khí giảm đi, hơn nữa lượng hơi nước và bụi trong đó cũng giảm xuống một cách đột ngột, do đó sự mất nhiệt của bức xạ cũng giảm đi). Tính vòng đai theo độ cao cũng rất đa dạng, phụ thuộc vào hàng loạt nguyên nhân: Thứ nhất, khối nâng miền núi phân bố ở đới cảnh quan cụ thể nào Thứ hai; nó thuộc vào ô địa lý tự nhiên nào Thứ ba; hệ thống núi có đặc điểm sơn văn như thế nào. 1) Mỗi đới theo độ vĩ có một kiểu tính vòng đai theo độ cao của mình, được đặc trưng bằng số lượng vòng đai, tính liên tục trong sự kế tiếp nhau của chúng, ranh giới độ cao của mỗi vòng đai. Ở gần xích đạo, số lượng vòng đai có thể tăng lên, ranh giới những vòng đai ấy di chuyển lên phía trên. Ví dụ dãy núi Ural phân chia khu vực Đông Âu và châu Á, do kéo dài trên 2000 km theo phương kinh tuyến nên có sự kế tiếp nhau của các loại vòng đai ở các đới khác nhau, từ đới đài nguyên đến nửa hoang mạc. 2) Ở mỗi ô địa lý tự nhiên các kiểu tính vòng đai theo đới có những biến dạng của mình. Những biến dạng này không phải ở số lượng vòng đai, mà ở thành phần cấu thành của chúng hay đặc tính của từng vòng đai. Thí dụ, vòng đai đồng cỏ Anpi chỉ có ở các ô gần đại dương, và không thấy ở các ô khí hậu lục địa… 3) Đặc tính của tính vòng đai phụ thuộc nhiều vào hướng phơi của các sườn núi, vị trí tương hỗ của các dẫy núi. Ví dụ, dãy Trường Sơn nằm chắn ngang các hướng gió mùa Đông Bắc – Tây Nam, khiến cho sườn Đông có mưa, sườn Tây khô hạn. Lưu ý rằng có sự khác nhau về bản chất giữa tính tính phân đới theo độ cao (qui luật đai cao) và tính phân đới theo chiều ngang (qui luật địa đới). Trong trường hợp đai cao, các thành phần tự nhiên bề ngoài có vẻ như lặp lại sự thay đổi của các thành phần ấy từ xích đạo lên đến cực. Thực ra, có rất nhiều sự khác biệt. 1) Ở miền núi, càng lên cao bức xạ cực tím tăng lên, nhiệt độ giảm theo chiều cao nhanh hơn nhiều so với sự giảm nhiệt độ từ xích đạo lên cực 2) Các điều kiện khí hậu trở lên phức tạp do địa hình núi (hướng phơi của sườn, tình trạng trước gió, hay dưới gió, lượng mưa tăng nhiều theo chiều cao địa hnh v.v…). 3) Các quá trình hình thành thổ nhưỡng, các quần thể sinh vật cũng có nét riêng mà chúng không thể có trong điều kiện đới ngang. Như vậy các đai cao không phải là sự lặp lại của các đới ngang, chúng chỉ tương tự như nhau vì các nguyên nhân hình thành không như nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pptLandscape_C3_07.ppt