Theo nghĩa rộng nhất thì “ Môi trường” là tập hợp các điều kiện và hiện tượng
bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thểhoặc sựkiện. Bất cứvật thể, sựkiện nào cũng
tồn tại và diễn biến trong môi trường nhưmôi trường vật lý, môi trường pháp lý , môi
trường kinh tế,.vv.Thực ra, các thành phần nhưkhí quyển ,thuỷquyển, thạch quyển,
tồn tại trên Trái Đất đã từrất lâu, nhưng chỉkhi có mặt các cơthểsống thì chúng mới
trởthành các thành phần của môi trường sống.
Môi trường sống là tổng các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sựsống và sự
phát triển của các cơ thể sống .Đôi khi người ta còn gọi khái niệm môi trường sống
bằng thuật ngữmôi sinh ( living environment).
Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, sinh
học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sựsống, sựphát triển của từng cá
nhân và toàn bộcộng đồng người. Thuật ngữ“Môi trường” thường dùng với nghĩa này.
Môi trường sống của con người là vũtrụbao la, trong đó có hệMặt trời và Trái Đất.
Các thành phần của môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp tới con người trên Trái đất
gồm 4 quyển: sinh quyển, thuỷquyển, khí quyển, thạch quyển .
Có thểnêu ra một định nghĩa chung vềmôi trường nhưsau :
Môi trường là tập hợp các yếu tốtựnhiên và xã hội bao quanh con người có
ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống của con người như
: không khí, nước, đất, sinh vật, xã hội loài người,.vv.
-Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại :
-Môi trường tựnhiên: bao gồm các yếu tốtựnhiên nhưcác yếu tốvật lí, hoá học
và sinh học, tồn tại khách quan ngoài ý muốn con người.
-Môi trường xã hội: là tổng thểcác quan hệgiữa người và ngươi tạo nên sựthuận
lơii hoặc trởngại cho sựtồn tại và phát triển của các cá nhân và cộng đồng loài người.
-Môi trường nhân tạo: là tất cảcác yếu tốtựnhiên, xã hội do con người tạo nên
và chịu sựchi phối của con người .
Môi trường theo nghĩa rộng là tổng các nhân tốnhưkhông khí, nước , đất, ánh sáng
,âm thanh,cảnh quan,xã hội ,vv.có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống con người và các tài
nguyên thiên nhiên cần thiết cho sinh sống và sản xuất của con người. Môi trường theo nghĩa
hẹp là tổng các nhân tốnhưkhông khí, nước, đất, ánh sáng. vv.liên quan tới chất lượng
cuộc sống con người, không xét tới tài nguyên .
Từ các định nghĩa trên có thể sinh ra nhiều quan niệm khác nhau về khoa học môi
trường :
Môi trường là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học đang có hiện nay ( sinh
học, địa học, hoá học vv.).Tuy nhiên, các ngành khoa học nói trên chỉquan tâm đến một
phần hoặc một thành phần theo nghĩa hẹp.
Môi trường là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học liên ngành có mục đích
chủyếu là bảo vệmôi trường sống lâu dài của con người trên Trái đất. Trong giai đoạn hiện
nay, hoạt động phát triển kinh tếvà khoa học kỹthuật của con người có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới chất lượng môi trường sống (khai thác tài nguyên thiên nhiên, gia tăng dân số, sản xuất
1
2
công nghiệp). Không có một ngành khoa học đang có hiện nay đủ điều kiện nghiên cứu và
giải quyết mọi nhiệm vụcủa công tác bảo vệmôi trường là quản lí và bảo vệchất lượng các
thành phần môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái Đất.
194 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng khoa học môi trường và sức khỏe môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG
Bộ môn: Sức khỏe môi trường
-----&*&-----
BÀI GIẢNG
KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
VÀ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
(Có bổ sung sửa chữa)
Chủ biên: Th.S. GVC. Nguyễn Hữu Nghị
Huế, 2008
1 1
MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHOẺ CON NGƯỜI
Mục tiêu học tập
1. Diễn giải được định nghĩa môi trường sống và các phương pháp nghiên cứu
2. Hiểu được tác động qua lại giữa cơ thể và Môi trường
3. Phân tích được khả năng tự điều chỉnh của môi trường và sự ô nhiễm
I. Kháí niệm chung về Môi trường sống
1. Định nghĩa Môi trường
Theo nghĩa rộng nhất thì “ Môi trường” là tập hợp các điều kiện và hiện tượng
bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc sự kiện. Bất cứ vật thể, sự kiện nào cũng
tồn tại và diễn biến trong môi trường như môi trường vật lý, môi trường pháp lý , môi
trường kinh tế,..vv...Thực ra, các thành phần như khí quyển ,thuỷ quyển, thạch quyển,
tồn tại trên Trái Đất đã từ rất lâu, nhưng chỉ khi có mặt các cơ thể sống thì chúng mới
trở thành các thành phần của môi trường sống.
Môi trường sống là tổng các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự sống và sự
phát triển của các cơ thể sống .Đôi khi người ta còn gọi khái niệm môi trường sống
bằng thuật ngữ môi sinh ( living environment).
Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, sinh
học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống, sự phát triển của từng cá
nhân và toàn bộ cộng đồng người. Thuật ngữ “Môi trường” thường dùng với nghĩa này.
Môi trường sống của con người là vũ trụ bao la, trong đó có hệ Mặt trời và Trái Đất.
Các thành phần của môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp tới con người trên Trái đất
gồm 4 quyển: sinh quyển, thuỷ quyển, khí quyển, thạch quyển .
Có thể nêu ra một định nghĩa chung về môi trường như sau :
Môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người có
ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống của con người như
: không khí, nước, đất, sinh vật, xã hội loài người,...vv.....
-Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại :
-Môi trường tự nhiên: bao gồm các yếu tố tự nhiên như các yếu tố vật lí, hoá học
và sinh học, tồn tại khách quan ngoài ý muốn con người.
-Môi trường xã hội: là tổng thể các quan hệ giữa người và ngươi tạo nên sự thuận
lơii hoặc trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân và cộng đồng loài người.
-Môi trường nhân tạo: là tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội do con người tạo nên
và chịu sự chi phối của con người .
Môi trường theo nghĩa rộng là tổng các nhân tố như không khí, nước , đất, ánh sáng
,âm thanh,cảnh quan,xã hội ,vv.....có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống con người và các tài
nguyên thiên nhiên cần thiết cho sinh sống và sản xuất của con người. Môi trường theo nghĩa
hẹp là tổng các nhân tố như không khí, nước, đất, ánh sáng.. vv.....liên quan tới chất lượng
cuộc sống con người, không xét tới tài nguyên .
Từ các định nghĩa trên có thể sinh ra nhiều quan niệm khác nhau về khoa học môi
trường :
Môi trường là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học đang có hiện nay ( sinh
học, địa học, hoá học vv....).Tuy nhiên, các ngành khoa học nói trên chỉ quan tâm đến một
phần hoặc một thành phần theo nghĩa hẹp.
Môi trường là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học liên ngành có mục đích
chủ yếu là bảo vệ môi trường sống lâu dài của con người trên Trái đất. Trong giai đoạn hiện
nay, hoạt động phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật của con người có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới chất lượng môi trường sống (khai thác tài nguyên thiên nhiên, gia tăng dân số, sản xuất
1 2
công nghiệp). Không có một ngành khoa học đang có hiện nay đủ điều kiện nghiên cứu và
giải quyết mọi nhiệm vụ của công tác bảo vệ môi trường là quản lí và bảo vệ chất lượng các
thành phần môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái Đất.
2. Các phương pháp nghiên cứu
Khoa học môi trường sử dụng một loạt các phương pháp nghiên cứu lí thuyết và thực
nghiệm của các ngành khoa học cơ bản khác :
-Các phương pháp thu thập và xử lý số liệu thực tế, các thực nghiệm .
-Các phương pháp phân tích thành phần môi trường .
-Các phương pháp phân tích, đánh giá xã hội, quản lý xã hội, kinh tế .
-Các phương pháp tính toán , dự báo, mô hình hoá.
-Các giải pháp kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật .
-Các phương pháp phân tích hệ thống.
3. Các nội dung nghiên cứu
Các nghiên cứu môi trường rất đa dạng được phân chia theo nhiều cách khác nhau. Ở
đây có thể chia ra làm 4 bốn loại chủ yếu :
-Nghiên cứu đặc điểm của các thành phần môi trường ( tự nhiên hoặc nhân tạo ) có
ảnh hưởng hoặc chịu ảnh hưởng của con người, đó là nước, không khí, đất ,sinh vật, hệ sinh
thái, khu công nghiệp, đô thị, nông thôn vv.....Ở đây, khoa học môi trường tập trung nghiên
cứu mối quan hệ và tác động qua lại giữa con người với các thành phần của môi trường sống.
-Nghiên cứu công nghệ, kỹ thuật xử lý ô nhiễm, bảo vệ chất lượng môi trường sống
của con người.
-Nghiên cứu tổng hợp các biện pháp quản lý về khoa học kinh tế, luật pháp, xã hội
nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Trái Đất, quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành công
nghiệp.
-Nghiên cứu về phương pháp mô hình hoá, phương pháp phân tích hoá học ,vật lý,
sinh vật phục vụ cho ba nôi dung trên.
II. Mối quan hệ giữa cơ thể và Môi trường sống
Khoa học môi trường là ngành khoa học nghiên cứu mối quan hệ và tương tác qua lại
giữa con người và môi trường xung quanh. Con người và môi trường luôn thống nhất với
nhau. Người xưa từng phát hiện quy luật “ Thiên – Nhân hợp nhất”
Cơ thể đáp ứng trước các tác động của môi trường sống bằng các biểu hiện khác nhau:
Phản xạ, thích ứng, không thích ứng, giả thích ứng, rối loạn thích ứng....
Mặt khác con người can thiệp vào môi trường có mục đích trước hết để cải tạo môi
trường. Ví dụ các hoạt động sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên, các hoạt động y tế,
điều trị.... gây nên sự thay đổi mối tương tác giữa cơ thể và môi trường sống.
Tóm lại, Môi trường và cơ thể phải thống nhất với nhau, sự thay đổi của môi trường
trong một giới hạn nhất định kéo theo sự thay đổi để thích nghi của cơ thể sống, do đó càng
củng cố cơ chế thích nghi vốn đã linh hoạt, càng linh hoạt hơn. Sự thay đổi đột ngột hoặc
vượt quá giới hạn thích nghi sẽ dẫn đến những hậu quả xấu, thậm chí tiêu diệt một vài giống
loài sinh vật.
Thích ứng là quá trình điều chỉnh, đòi hỏi có một thời gian nhất định để cơ thể thích
nghi được với các yếu tố môi trường. Nếu không đủ thời gian thì sẽ dẫn đến rối loạn thích ứng
hay Giả thích ứng, vấn đề này để giải thích một số bệnh của nền văn minh : Bệnh cao huyết
áp, bệnh tâm thần kinh......
Đầu thập kỷ 70, nhà địa hoá người Anh Hamilton đã đưa ra kế hoạch thực nghiệm là
xác định hàm lượng nguyên tố hoá học trong đá, bụi, đất, giấy, cá, lương thực, máu và não để
xem hàm lượng các nguyên tố hoá học trong cơ thể con người và vật chất trong môi trường có
1 3
quan hệ gì với nhau không. Kết quả giám định 60 loại nguyên tố hoá học cho thấy tỉ lệ hàm
lượng các nguyên tố hoá học tương ứng trong vỏ Trái Đất. Thí dụ hàm lượng 4 nguyên tố chủ
yếu C.H.O.N chiếm 99,4% khối lượng con người và 50,5% vỏ Trái Đất .Các nghiên cứu địa
hoá sinh thái cho thấy có một số bệnh tật có liên quan tới sự thiếu hụt hay dư thừa nguyên tố
hoá học trong đất đá khu vực. Thí dụ thiếu Se -viêm khớp xương , thiếu kẽm - người lùn,
thiếu iot-bướu cổ, thừa Cd-đau xương, tự gẫy xương. Năm 1955, ở huyện Phusan Nhật Bản
phát hiện loại bệnh gẫy xương do thừa Cd. Bệnh hoành hành trong thời gian hơn 20 năm,
riêng 1963-1967 làm chết 207 người. Nguyên nhân của loại bệnh trên là do nồng độ Cd cao,
có trong nước thải của hoạt động khai thác một số mỏ Pb, Zn nằm ở đầu nguồn một con sông
cung cấp nước tưới cho các cánh đồng lúa của huyện Phusan .
Khi phơi nhiễm với các yếu tố môi trường, sự đáp ứng của cơ thể còn phụ thuộc vào
các đặc trưng của cơ thể mang tính chất cá nhân, như yếu tố di truyền, tình trạng dinh dưỡng,
tuổi, giới, chủng tộc, điều kiện vật chất, sự rèn luyện....Chính vì các đặc trưng đó mà cơ thể
có các đáp ứng khác nhau trước các tác động của môi trường và kết quả là tình trạng sức khoẻ
sẽ khác nhau.
Như vậy, trong gian đoạn hiện nay, có thể xem khoa học môi trường là một ngành
khoa học độc lập, được xây dựng trên cơ sở tích hợp các kiến thức của các ngành khoa học đã
có cho một đối tượng chung là môi trường sống bao quanh con người với phương pháp và nội
dung nghiên cứu cụ thể .
III. Ứng dụng nguyên lý sinh thái học trong việc bảo vệ Môi trường sống
1. Sinh thái học (Ecologie)
Là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh vật (động vật, thực vật, con người)
với ngọai cảnh. Sinh thái học là một khoa học có phạm vi nghiên cứu rất rộng, phạm vi
nghiên cứu chủ yếu của nó thuộc khoa sinh học, và một phần thuộc các khoa khác như địa lý,
địa chất, khảo cổ, nhân học và cả khoa học xã hội. Sinh thái học cũng được coi là một khoa
học trung gian, họăc bao trùm lên các khoa học trên. Đối tượng nghiên cứu của sinh thái học
có 4 mức tổ chức khác nhau từ thấp lên cao: Cơ thể, Chủng quần (Quần thể), Quần xã và Hệ
sinh thái.
Chủng quần được định nghĩa là một tập hợp các cá thể của cùng một lòai hay những
lòai rất gần nhau, cùng sống trong một không gian nhất định hay còn gọi là sinh cảnh. Ví dụ:
Chủng quần nai sống ở đảo Các bà, chủng quần chuột sống sống ở thành phố Huế, chủng
quần cây Vẹt sống ở ven biển Ba tri (Bến tre)...
Quần xã bao gồm tập hợp tất cả các chủng quần (động vật, thực vật, vi sinh vật) cùng
sống trong một sinh cảnh, Ví dụ: Quần xã sinh vật Hồ Tây: bao gồm tất cả các chủng quần, từ
các lòai vi sinh vật, tảo, động vật không xương sống đến cá ở Hồ tây; hay quần xã sinh vật
rừng Cúc phương...
Hệ sinh thái được định nghĩa gồm Quần xã, và Môi trường bao quanh Quần xã.
Có thể nói, Hệ sinh thái là một hệ thống gồm các Chủng quần sinh vật và Môi trường,
ở đó thực hiện mối quan hệ khăng khít giữa sinh vật và ngọai cảnh.
2. Cấu trúc của hệ sinh thái
Các Hệ sinh thái nói chung, về cấu trúc đều gồm có 4 thành phần cơ bản: Môi trường,
Vật sản xuất, Vật tiêu thu, và Vật phân hủy: (hình 1).
- Môi trường (E): bao gồm các nhân tố vật lý, hóa học (vô sinh) bao quanh sinh vật. Ví
dụ: Hệ sinh thái hồ, môi trường gồm nước, nhiệt độ, ánh sáng, các khí hòa tan, O2 , CO2 , các
muối hòa tan, các vật lơ lửng... Môi trường cung cấp tất cả các yếu tố cần thiết cho Vật sản
xuất tồn tại, và phát triển.
- Vật sản xuất (P): bao gồm cây xanh và một số vi khuẩn, là các sinh vật có khả năng
tự tổng hợp được các chất hữu cơ cần cho sự xây dựng cơ thể của mình, các sinh vật nầy còn
1 4
được gọi là các sinh vật Tự dưỡng. Cây xanh nhờ có diệp lục nên chúng thực hiện được quang
hợp, tổng hợp chất hữu cơ để xây dựng cơ thể chúng theo phản ứng sau đây:
6 CO2 + 6 H2O + năng lượng mặt trời + Enzym diệp → C6 H12O6 + 6 O2.
Một số vi khuẩn được coi là Vật sản xuất do chúng có khả năng quang hợp hay hóa tổng hợp.
Đương nhiên, tất cả các hoạt động động sống có được là nhờ vào khả năng sản xuất của Vật
sản xuất.
- Vật tiêu thụ (C): bao gồm các động vật, chúng sử dụng chất hữu cơ trực tiếp hay gián
tiếp từ Vật sản xuất, chúng không có khả năng tự sản xuất được chất hữu cơ, và được gọi là
các sinh vật Dị dưỡng. Vật tiêu thụ cấp 1 hay vật ăn cỏ là các động vật chỉ ăn các thực vật.
Vật tiêu thụ cấp 2 là động vật ăn tạp hay ăn thịt. Theo chuỗi thức ăn, ta còn có vật tiêu thụ cấp
3, vật tiêu thụ cấp 4... Ví dụ: Trong Hệ sinh thái hồ, tảo là Vật sản xuất; giáp xác thấp là Vật
tiêu thụ cấp 1; tôm, tép, cá nhỏ là Vật tiêu thụ cấp 2; cá rô, cá chuối là vật tiêu thụ cấp 3;
Rắn nước, rái cá , chim bói cá là vật tiêu thụ cấp 4.
- Vật phân hủy (T): là một số vi khuẩn và nấm, chúng phân hủy các chất hữu cơ. Tính
chất dinh dưỡng đó gọi là Hoại sinh; chúng sống nhờ vào các sinh vật chết và các chất thải
của động vật , chúng phá vỡ các hợp chất hữu phức tạp tạo ra các chất hữu cơ đơn giản và các
chất vô cơ; các sản phẩm này, cây xanh có thể sử dụng được.
Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên bao gồm đủ 4 thành phần cơ bản nêu trên. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, Hệ sinh thái không đủ 4 thành phần. Ví dụ: Hệ sinh thái đáy biển
sâu thiếu Vật sản xuất (do thiếu ánh sáng), do đó chúng không thể tồn tại được nếu không
được Hệ sinh thái ở tầng mặt cung cấp chất hữu cơ. Tất cả các hệ sinh thái tự nhiên đều có
cách phát triển riêng - đó là hệ quả của mối quan hệ qua lại giữa 4 thành phần của hệ sinh
thái. Những biến đổi này có thể xảy ra nhanh hay chậm tùy theo từnghệ sinh thái. Ví dụ: hệ
sinh thái hô, lúc đầu khi hồ còn sâu, chúng ta gặp đầy đủ các chủng quần giáp xác, thân mềm,
côn trùng ở nước, cá và cả các cây thủy sinh sống ven hồ. Hệ sinh thái hồ dần dần được lắng
đọng các chất trầm tích từ các vùng xung quanh chảy tới. Hồ nông dần, cho đến khi ta không
thể gọi là hồ được nữa. Hệ sinh thái hồ đã chuyển sang hệ sinh thái đầm lầy. Nếu như con
người không can thiệp vào các hệ sinh thái tự nhiên, thì xu thế phát triển chung của chúng là
tiến tới một kiểu Hệ sinh thái ổn định, với một sinh khối tối đa và sự phân hóa cao các chủng
quần. Quần xã thuộc các kiểu hệ sinh thái này được gọi là quần xã đỉnh cực (Climax). Quá
trình biến đổi quần xã này nối tiếp quần xã khác gọi là sự Diễn thể, các Quần xã trong quá
trình diễn thể thường có sức sản xuất sinh học cao, độ phân hóa các lòai thấp và kém bền
vững so với các quần xã đỉnh cực (hay thành thục). Các hệ sinh thái nông nghiệp là các hệ
sinh thái trẻ có năng xuất sinh học cao nhưng rất dễ bị hủy họai nếu các nhân tố sinh thái bị
thay đổi bất ngờ.
3. Vòng tuần hòan vật chất của hệ sinh thái
Trong các hệ sinh thái, thường xuyên có sự vận chuyển các chất hóa học từ Môi trường
vào Vật sản xuất, rồi từ Vật sản xuất sang Vật tiêu thụ, sau đó các chất hóa học này từ Vật sản
xuất và Vật tiêu thụ sang Vật phân hủy, và cuối cùng chúng lại trở về Môi trường.Sự vận
chuyển vật chất này được gọi là vòng tuần hòan vật chất của hệ sinh thái, hay còn được gọi là
: Chu trình Sinh - Địa - Hóa. Ví dụ: một vài vòng tuần hòan vật chất chủ yếu của hệ sinh
thái: Vòng tuần hòan C, N, P, và S,,,
4. Dòng năng lượng của Hệ sinh thái
Song song với vòng tuần hòan vật chất, trong hệ sinh thái còn tồn tại dòng năng lượng.
Đối với Vật sản suất (P), năng lượng được cung cấp từ nguồn năng lượng mặt trời; chỉ
có một phần rất nhỏ của bức xạ tổng cộng (LT) của năng lượng bức xạ mặt trời được diệp lục
của cây xanh sử dụng, phần còn lại không được sử dụng (NUI). Phần năng lượng mà cây xanh
hấp thụ (LA), một phần lớn phân tán dưới dạng nhiệt (CH) và chỉ một phần rất nhỏ được dùng
1 5
để quang hợp, sản xuất ra các chất hữu cơ. Phần năng lượng nầy còn được gọi là sức sản xuất
sơ cấp thô (PB); sức sản xuẩt sơ cấp nguyên (PN) tương ứng với sức sản xuất thô trừ đi năng
lượng mất đi do hô hấp (Ri) của vật sản xuất.
Được gọi là dòng năng lượng đi qua vật dinh dưỡng cho trước là tổng số năng lượng
mà vật dinh dưỡng đó hấp thụ, ở đây là PB = PN + RI .
Một phần năng lượng của sức sản xuất sơ cấp nguyên (PN) được sử dụng làm thức ăn
cho vật tiêu thụ cấp 1, tức là nhóm động vật ăn thực vật ( gọi phần năng lượng này là LI ). một
phần năng lượng của sức sản xuất nguyên không được sử dụng (NU2) bởi vật tiêu thụ, phần
thực vật tương ứng này được dùng làm mồi ăn của các vi khuẩn và các vật phân hủy khác.
Phần năng lượng LI tuy được vật tiêu thụ cấp I sử dụng, nhưng chúng chỉ dùng được phần
năng lượng AI thôi, còn phần năng lượng NAI thải đi dưới dạng phân và nước tiểu của vật
tiêu thụ cấp 1.
Phần năng lượng AI bao gồm một phần là sức sản xuất thứ cẩp PSI và một phần năng
lượng mất đi do hô hấp R2 : AI = PSI + R2 ; Cũng lập luận tương tự như vậy đối với bậc
dinh dưỡng là Vật tiêu thụ cấp 2, ta có: A2 = PS2 + R3
Dòng năng lượng vừa được mô tả ở trên được minh họa theo hình
Hai chức năng: Vòng tuần hòan vật chất và dòng năng lượng là 2 chức năng cơ bản
của hệ sinh thái, nó biểu thị đặc trưng riêng của từng hệ sinh thái, và mức độ tiêu hóa của nó.
Các hệ sinh thái đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Con người là một
thành phần của hệ sinh thái. Muốn điều khiển các hệ sinh thái sao cho có lợi nhất đối với con
người, chúng ta phải hiểu thật đầy đủ cấu trúc và chức năng của các Hệ sinh thái.
5. Sự tự điều chỉnh (Homéostasie) của các hệ sinh thái
Các hệ sinh thái tự nhiên nói chung đều có khả năng tự điều chỉnh riêng của mình; Nói
theo nghĩa rộng, đó là khả năng tự lập lại cân bằng, cân bằng giữa các chủng quần trong hệ
sinh thái (vật ăn thịt - con mồi, vật ký sinh - vật chủ …), cân bằng các vòng tuần hòan vật chất
và dòng năng lượng giữa các thành phần của hệ sinh thái… Sự cân bằng này cũng có nghĩa là
sự cân bằng giữa các vật sản xuất, vật tiêu thụ và vật phân hủy. Sự cân bằng này còn được gọi
là cân bằng sinh thái. Nhờ có sự tự điều chỉnh này mà các hệ sinh thái tự nhiên giữ đuợc sự ổn
định mỗi khi chịu tác động của nhân tố ngọai cảnh. Nhưng sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái
có giới hạn nhất định, nếu sự thay đổi của các nhân tố ngoại cảnh vượt quá giới hạn này thì hệ
sinh thái mất khả năng tự điều chỉnh, và hậu quả là chúng bị phá hủy.
- Cũng lưu ý ở đây là, con người không phải lúc nào cũng muốn các hệ sinh thái có
khả năng tự điều chỉnh. Ví dụ : nền nông nghiệp thâm canh dựa vào sự sản xuất dư thừa chất
hữu cơ, để cung cấp lương thực và thực phẩm cho con người. Các hệ sinh thái này là các hệ
sinh thái không có sự tự điều chỉnh với mục đích con người sử dụng hữu hiệu phần dư thừa
đó.
- Ngày nay, nhiều nước nhiệt đới đã phá đi hàng lọat rừng nhiệt đới để phát triển nông
nghiệp. Trên thực tế, sự phá hủy này không những phá đi những hệ sinh thái giàu có và giá trj
cao để không phải dễ dàng gì mà có được hiệu quả cao về sản xuất nông nghiệp. Do tầng đất
mỏng, cường độ trao đổi chất của các rừng nhiệt đới cao nên thường đem lại sự nghèo nàn
trong sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa một khi rừng bị phá hủy thường kéo theo sự xói mòn,
hạn hán, và lũ lụt.
- Một ví dụ khác, trường hợp các chất hữu cơ do chất thải sinh hoạt của các khu dân
cư vào hệ sinh thái ở nước. Các chất dinh dưỡng này đã làm cho các lòai tảo (Vật sản xuất)
phát triển cao độ. Vật sản xuất do phát triển quá nhiều mà không được các vật tiêu thụ sử
dụng kịp, một khi chúng chết đi chúng bị phân hủy và giải phóng ra các chất độc. Đồng thời,
quá trình này lại gây nên hiện tượng O2 trong nước giảm xuống quá thấp, và có thể làm chết
hàng lọat cá và các loài động vật khác có trong nước. Đây là trường hợp ô nhiễm hữu cơ vực
nước , rất hay xảy ra ở các vùng đang đô thị hóa, nhất là ở các nước đang phát triển.
1 6
- Sự mất cân bằng trong hệ sinh thái, lúc đầu thường xảy ra cho vài thành phần, sau đó
mở rộng sang các thành phần khác; và có thể từ hệ sinh thái này mở rộng sang hệ sinh thái
khác.
- Sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái là kết quả của sự tự điều chỉnh của từng cơ thể, của
từng chủng quần, của quần xã, mỗi khi một nhân tố sinh thái nào đó thay đổi.
Chúng ta chia các nhân tố sinh thái ra làm 2 nhóm: Nhân tố sinh thái Giới hạn, và nhân
tố sinh thái Không giới hạn. Nhiệt độ, nồng độ các loại muối, thức ăn... là nhân tố sinh thái
giới hạn; Có nghĩa là, ví dụ như đối với nhiệt độ, nếu chúng ta cho nhiệt độ thay đổi từ thấp
lên cao, chúng ta sẽ tìm được một khoảng giới hạn nhiệt độ thích hợp của Cơ thể, hay của cả
Chủng quần; ngòai khoảng giới hạn đó, Cơ thể hay Chủng quần không tồn tại được. Khoảng
giới hạn này còn được gọi là “Khoảng giới hạn sinh thái “ hay khoảng giới hạn cho phép của
cơ thể, của chủng quần. Hai yếu tố: ánh sáng, địa hình: không được coi là nhân tố sinh thái
giới hạn đối với động vật.
Như vậy, mỗi cơ thể, mỗi chủng quần có một Khoảng giới hạn sinh thái nhất định đối
với từng nhân tố sinh thái; Khoảng giới hạn này phụ thuộc vào khả năng thích nghi ( hay còn
gọi là vị trí tiêu hóa) của cơ thể, của chủng quần, và cũng phụ thuộc vào các nhân tố sinh thái
khác.
Ô nhiễm là hiện tượng do các hoạt động của con người, dẫn đến sự thay đổi các nhân
tố sinh thái, đưa các nhân tố này ra ngòai Khoảng giới hạn sinh thái của cơ thể, của chủng
quần, của quần xã. Con người đã gây nên rất nhiều lọai ô nhiễm (hóa học, vật lý, sinh học)
cho các lòai sinh vật (vi sinh vật, động vật, thực vật, và cả cho người).
Muốn kiểm sóat được ô nhiễm môi trường cần phải biết được các Khoảng giới hạn
sinh thái của cơ thể, của chủng quần, của quần xã đối với từng nhân tố sinh thái. Dự phòng ô
nhiễm là làm sao cho các nhân tố sinh thái nêu trên không vượt ra khỏi khoảng giới hạn thích
ứng của nó. Xử lý ô nhiễm có nghĩa là đưa các nhân tố sinh thái đó trở về trong khoảng giới
hạn sinh thái của cơ thể, của chủng quần, của quần xã. Muốn xử lý được ô nhiễm cần phải
biết được cấu trúc và chức năng của từng hệ sinh thái và nguyên nhân làm cho các nhân tố
sinh thái vượt ra ngòai khoảng giới hạn thích ứng - Đây là nguyên lý sinh thái cơ bản được
vận dụng vào việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Câu hỏi lượng giá cuối bài
1. Định nghĩa môi trường sống. Hãy phân tích định nghĩa ?
2. Phân tích mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường sống. Nêu một vài ví dụ ?
3. Hãy giải thích Nguyên lý sinh thái học ứng dụng bảo vệ môi trường sống như thế nào
?
Tài liệu tham khảo chính
1. Lưu Đức Hải, (2001), Cơ sở khoa học Môi trường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
nội.
2. Đào Ngọc Phong,(1986), Môi trường và Sức khoẻ con ng ười, Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Ch ương trình 5202. Hà nội
3. Đào Ngọc Phong, Lê Quang Hoành (1998), Vệ sinh môi trường và nguy cơ tới sức khỏe,
tập I, Nxb Y học, Hà Nội .
4. Võ Quý, (1993), Sinh th ái h ọc, Trường Đại học Tổng hợp Hà nội, Hà nội.
5. Aron J.L. , Patz J. A. , (2001), Ecosystem Change and Globan Health : A Global
Perpective, Baltimore , Md , Johns Hopkins University Press.
6. Bassett. W.H., (1995), Clay's handbook of Environmental Health, 7th edition, Chapman
& Hall
1 7
SINH VẬT VÀ MÔI TRƯỜNG
I. Những khái niệm và nguyên lý
1. Nguyên lý cơ bản
Nguyên lý cơ bản của sinh thái học hiện đại chính là những khái niệm về sự thống
nhất và đối lập một cách biện chứng giữa cơ thể và môi trường.
- Mỗi cơ thể, quần thể, loài sinh vật bất kỳ (bao gồm cả con người) đều sống dựa vào môi trường
đặc trưng của mình, ngoài mối tương tác đó ra sinh vật không thể tồn tại được.
- Môi trường ổn định, sinh vật sống ổn định và phát triển hưng thịnh.
- Môi trường suy thoái, sinh vật cũng bị suy giảm cả về chất lượng và số lượng.
- Môi trường bị hủy hoại thì sinh vật cũng chịu chung số phận.
Trong trường hợp, môi trường bị phá hủy nếu được phục hồi thì những quần thể, loài
trước đó đã từng sinh sống dù có cư trú trở lại cũng giảm tính đa dạng và khó có thể phát triển
hưng thịnh như trước đó.
Trong mối tương tác giữa cơ thể và môi trường, sinh vật đều phản ứng với sự biến đổi
của các yếu tố môi trường bằng những phản ứng thích nghi về sinh lý, sinh thái và tập tính
thông qua hoạt động của hệ thần kinh - thể dịch, đồng thời chủ động làm cho môi trường biến
đổi nhằm giảm thấp hậu quả tác động bất lợi của các yếu tố và đồng hóa, cải tạo chúng theo
hướng có lợi cho sự tồn tại của chính mình. Sinh vật sống trong các tổ chức càng cao (quần
thể, quần xã, ...) thì sự thích nghi và sức cải tạo đối với môi trường càng có hiệu quả. Sự thích
nghi này của sinh vật được hình thành trong quá trình tiến hóa và mang tính chất tương đối.
Nếu tác động của các yếu tố môi trường vượt khỏi ngưỡng thích nghi của sinh vật, buộc sinh
vật phải rơi vào tình trạng diệt vong nếu như chúng không tìm được những điều kiện tồn tại
thích ứng ở một môi trường sống khác hoặc buộc phải biến đổi về mặt hình thái, đặc tính sinh
lý, sinh thái và tập tính để đi vào con đường chuyển hóa, tiến hóa của các loài và phải trải qua
một chặng đường dài và được kiểm soát bởi quy luật chọn lọc tự nhiên.
2. Những khái niệm cơ bản
2.1. Ngoại cảnh
Đó là những thực thể của tự nhiên, con người và những kết quả của con người. Ngoại
cảnh tồn tại một cách khách quan.
2.2. Môi trường
Là một phần của ngoại cảnh, bao gồm những thực thể và hiện tượng của tự nhiên mà cơ
thể, quần thể, loài có liên quan một cách trực tiếp bằng các mối quan hệ thích nghi. Ví dụ: nền
đáy là môi trường của các sinh vật sống đáy, song không phải là môi trường đối với các sinh
vật sống ở màng nước và ngược lại.
2.3. Cảnh sống
Là một phần của môi trường mà ở đó có sự thống nhất của các yếu tố tác động trực tiếp
lên đời sống của sinh vật.
2.4. Yếu tố của môi trường
Đó là những thực thể và những hiện tượng riêng lẻ của tự nhiên, của thế giới sống, bao
gồm cả con người và hoạt động của nó, mà sinh vật chịu ảnh hư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa_hoc_moi_truong_va_suc_khoe_moi_truong_694.pdf