Hiện nay đại bộ phận đất này được trồng 2 vụ lúa, những nơi chủ động tưới
tiêu thư ờng vẫn cho năng suất cao. Nói chung khai thác vùng đất mặn trồng lúa l à
việc làm cần thiết để giải quyết lương thực tại chỗ, đặc biệt là trồng các giống lúa
đặc sản chất lượng cao.
Ngoài ra từng bước giành ưu tiên cho nuôi trồng thuỷ sản, không nên ngọt hoá
tuỳ tiện, vì làm nh ư vậy sẽ không giữ được môi trường sinh thái để sử dụng đa dạng
và hiệu quả hơn.
- Cải tạo đất mặn:
Đất mặn là một loại đất xấu, muốn sử dụng đất đạt hiệu quả cao phải tiến hành
cải tạo, m ục đích cải tạo đất mặn nhằm:
-Giảm tổng số muối tan đến mức bình thường.
-Tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng cần thiết.
-Dần dần cải thiện tính chất vật lý, l àm đất có kết cấu.
Để cải tạo đất mặn, cần thực hiện một loạt các biện pháp như thủy lợi, cơ cấu
cây trồng, phân bón. trong đó thủy lợi l à biện pháp hàng đ ầu.
+ Biện pháp thủy lợi: Xây dựng hệ thống mương tưới để rửa mặn, hệ thống
mương tiêu để tiêu mặn và hạ thấp mực nước ngầm mặn.
Thường áp dụng 3 hình th ức rửa mặn: Rửa trên mặt, rửa thấm và rửa theo
phương pháp kết hợp hai kiểu trên.
-Rửa trên m ặt: Dẫn nước ngọt vào, làm đất, muối tan được rút ra khỏi phức hệ
thấp thu hòa vào dung dịch đất tháo nước này xuống các mương tiêu sau một thời
gian ngâm. Biện pháp này làm giảm tổng muối tan của lớp đất mặn trong thời gian
ngắn.
-Rửa thấm: Dẫn nước ngọt vào, ngâm liên t ục thời gian dài. Do áp suất thủy
tinh, dung dịch đất h òa tan nhiều muối sẽ thấm xuống sâu, theo các mạch nước
ngầm rút ra mương tiêu, rửa được mặn sâu xuống các tầng đất dưới.
-Rửa kết hợp: Kết hợp 2 phương pháp rửa trên.
+ Bón phân:
-Phân hữu cơ: có tác dụng rất rõ, một số loại cây phân xanh phát triển tốt
trên đ ất mặn như bèo dâu, điền thanh hạt tròn. Ngoài giá trị làm phân bón, phân hữu
cơ dần dần cải thiện kết cấu đất.
117
-Phân khoáng các loại: đầu t ư NPK phù hợp với từng loại cây trồng, nhưng
không sử dụng đạm dạng clorua hoặc sunpat, dùng urê hoặc nitrat; phân lân thì nên
sử dụng dạng tự nhiên hay thermophosphat.
+ Biện pháp hoá học:
Dùng Ca
2+
để thay thế Na
+
ở trên keo đất:
[KĐ]
2Na
+
+ CaSO
4 [KĐ]
Ca
2+
+ Na
2SO
4
Sau đó dùng nước ngọt để rửa Na
2SO
4
nhằm làm giảm lượng Na
+
trong đ ất
mới phát huy hiệu quả cao.
Ở nước ta do thiếu thạch cao nên có thể dùng vôi để bón.
[KĐ]
Na
+
+ CaO + H
2
O [KĐ]
Ca
2 +
+ 2NaOH
Sau khi bón vôi dùng nư ớc ngọt để rửa NaOH nhằm làm giảm lượng Na
+
trong
đất.
+ Biện pháp cây trồng:
Xây dựng chế độ canh tác hợp lý, tốt nhất l à trồng các cây chịu mặn như cói,
phân xanh. sau khi cải tạo sẽ trồng lúa.
Chú ý, đất đã cải tạo không được để hạn, vùng nào không có thủy lợi bảo đảm
thì không nên làm ải và vùng đất mới khai hoang cũng không nên làm ải.
13.2.3.4. Đất mặn kiềm (MK) - Solonetz (SN)
151 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng khoa học đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển hình như sau:
* Phẫu diện đất số 1: ở xã Khánh An, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình: (lúa 2
vụ, năng suất trung bình 3,2 - 3,7 tấn/ha/vụ).
0 - 12 cm Màu xám nâu, ẩm, thịt trung bình, sét pha cát và thịt, cấu trúc cục
trung bình, rất ít lỗ hổng bé, chặt, chuyển lớp rõ.
12 - 30 cm Màu xám nâu hơi vàng, ẩm, thịt nặng - thịt pha sét, rất ít lỗ hổng,
cấu trúc cục, trung bình, chặt, chuyển lớp rõ.
30 - 70 cm Màu xám nâu nhạt, ướt, thịt nặng - thịt pha sét glây trung bình,
có những vết gỉ sắt nhỏ, chuyển lớp đột ngột.
70 - 120
cm
Màu xám, ướt, thịt nhẹ - thịt pha cát, có nhiều vảy mica nhỏ óng
ánh, tơi.
* Phẫu diện đất số 2: ở xã Diên Hồng, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà:
(đất trồng chuối, năng suất: 35 - 40 tấn/ha).
0 - 24 cm Màu nâu nhạt, ẩm, sét, ít lỗ hổng bé, cấu trúc cục trung bình,
chặt, chuyển lớp từ từ.
107
24 - 53 cm Màu nâu nhạt, ẩm, sét, cấu trúc cục trung bình, chặt, chuyển lớp
từ từ.
53 - 100
cm
Màu nâu nhạt, ẩm, sét, cấu trúc cục trung bình, chặt, glây yếu.
* Phẫu diện đất số 3: ở xã Hạ Mỹ Bắc, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang: (lúa 2
vụ Đông Xuân và Hè Thu).
0 - 18 cm Màu xám đen, ẩm, sét, cấu trúc cục trung bình, tảng, ít chặt, có ít
lỗ hổng nhỏ, glây yếu, chuyển lớp rõ về màu sắc.
18 - 40 cm Màu xám nâu, ẩm, sét, cấu trúc cục trung bình, glây yếu, chuyển
lớp rõ về màu sắc.
40 - 60 cm Màu nâu vàng, ẩm, sét, có lẫn nhiều ổ sét màu trắng, dính dẻo,
glây trung bình, chuyển lớp rõ về màu sắc.
60 - 95 cm Màu xám nâu, ẩm, sét, ít chặt, dẻo, glây trung bình, chuyển lớp
rõ về màu sắc.
95 - 125
cm
Màu nâu vàng, nhão, sét, lẫn các vết hữu cơ màu đen rải rác, ít
chặt, glây mạnh.
Bảng 26 - Một số chỉ tiêu nông hoá đất phù sa chua.
pH
Cation trao đổi
(lđl/100g đấ t)
Chấ t
tổng số (%)
Chấ t dễ tiêu
(mg/100g
đấ t)
Thành phần
cơ giớ i (%)
Độ sâu
(cm)
pHH2 O pHKC l
Mùn
(%)
CEC
(lđl/100
g đấ t)
Ca 2 + Mg2 + N P2 O5 K2 O P2 O5 K2 O < 0,002 0,002-
0,05
0,05 -
2
V
%)
Phẫu diện đất số 1: ở xã Khánh An, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
0-12 5,15 4,25 1,30 10,94 5,50 0,90 0,11 0,05 0,85 10,0 15,0 32 26 42 45
12-30 5,35 4,76 0,76 7,75 5,30 0,50 0,07 0,09 1,71 7,5 7,5 33 39 28 42
30-70 4,80 4,05 0,,73 8,10 4,70 1,20 0,06 0,03 1,16 5,0 11,5 36 40 24 40
70-120 4,05 3,55 0,48 9,44 3,80 1,70 0,05 0,03 0,79 10,0 11,5 14 13 73 35
Phẫu diện đất số 2: ở xã Diên Hồng, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà
0-24 4,50 3,77 2,06 14,00 2,30 2,20 0,11 0,10 0,03 11,8 12,3 52,64 22,00 25,36 40
24-53 4,60 3,70 1,03 18,00 1,60 2,80 0,08 0,09 0,02 16,1 6,00 52,64 18,00 29,36 42
53-110 4,10 3,61 0,86 19,00 0,80 2,90 0,08 0,08 0,02 9,90 4,85 50,64 18,00 31,36 38
Phẫu diện đất số 3: ở xã Hạ Mỹ Bắc , huyện Cá i Bè, tỉnh Tiền Giang
0-18 4,40 4,10 5,16 12,0 8,40 4,10 0,22 0,05 0,59 4,95 10,0 63,36 5,2 31,36 48
18-40 4,80 4,20 6,19 11,0 7,20 4,90 0,28 0,04 0,58 4,58 8,00 49,36 19,28 31,36 48
40-60 4,70 4,00 6,40 10,0 8,50 4,90 0,31 0,04 0,59 5,21 9,00 53,36 17,28 29,36 45
60-95 4,50 3,90 5,33 13,0 8,10 5,50 0,21 0,06 0,58 5,58 12,0 49,36 19,28 31,36 42
95-125 4,50 3,90 4,64 12,0 9,90 6,30 0,14 0,06 0,61 4,58 11,0 57,36 17,28 25,36 40
Qua phân tích hàng loạt phẫu diện loại đất này cho thấy:
- Hàm lượng chất hữu cơ trung bình.
- Đạm, kali trung bình.
- Lân trung bình và nghèo.
- Dung tích hấp phụ trung bình.
108
- Ca
2+ trao đổi
Mg2+ trao đổi > 1 - 10
Về độ phì nhiêu, hình thái phẫu diện thường gắn với các hệ thống sông: bản
chất do chất lượng sản phẩm phong hóa từ thượng nguồn. Nói chung trừ những đất
phù sa chua mang sản phẩm từ đá mẹ giàu thạch anh thì nghèo, còn đại bộ phận có
các chất dinh dưỡng như hữu cơ, đạm, lân, kali, Ca2+, Mg2+ trung bình và khá; đặc
biệt những phù sa mới, chưa khai thác nhiều thường giàu kali.
Về tính thích nghi và hướng sử dụng:
Đây là loại đất chủ lực để giải quyết lương thực cho người, cho chăn nuôi và
xuất khẩu. Đất phù sa chua chiếm hầu hết diện tích đất phù sa vùng duyên hải Trung
Bộ từ hệ thống sông Mã đến sông Quao, sông La Ngà, là những vựa lúa trung bình và
nhỏ của miền Trung và đang được sử dụng rất đa dạng: Lúa; Hoa màu, cây công
nghiệp ngắn ngày.
Đây là những vựa lúa lớn hoặc nhỏ càng ngày càng phong phú theo sự phát
triển của giống và hệ thống canh tác mới. Những vùng đất cao hoặc chủ động tưới
tiêu nông dân đã xen thêm vụ cây trồng cạn để có rau quả vụ đông (xuất khẩu, chăn
nuôi) hoặc cây họ đậu bồi dưỡng đất. Với tính chất đất và sự thích nghi rộng nên ở
nhiều vùng đất phù sa còn phát triển những cây thuốc, dâu tằm, mía và những cây
đặc sản khác, cả những cây ăn quả có giá trị như cam, quýt, nhãn, vải,....
Về yêu cầu, đi đôi với việc tăng cường chủ động tưới tiêu, cần tăng cường bón
cân đối dinh dưỡng (vì trong đất thường thiếu và mất cân đối NPK), đồng thời bón
phân hữu cơ để nâng cao hàm lượng mùn cho đất và bón vôi để hạ dần độ chua của
đất.
13.2.2. NHÓM ĐẤT CÁT (C) - Arenosol (AR)
Diện tích toàn nhóm: 533.434 ha, chiếm 1,61% diện tích tự nhiên cả nước.
Phần lớn diện tích đất cát tập trung thành một dải chạy dọc bờ biển miền trung
từ Thanh Hóa đến Bình Thuận và rải rác một số ít vùng ven biển Bắc bộ và Nam
bộ.
Trước đây ta vẫn dùng đất cát biển vì chủ yếu phân bố ven biển, nhưng cũng có
một số đất cát phân bố ven một số sông lớn hoặc ở một số vùng đất phát triển tại
chỗ trên đá mẹ sa thạch hoặc granit.
Về sự hình thành: Đất cát là loại đất rất trẻ (từ kỷ đệ tứ đến hiện đại). Nó là sản
phẩm của hai quá trình chính: Quá trình vận động nâng lên của thềm biển cũ và quá
trình bồi tụ tạo lập đồng bằng của hệ thống sông ở miền Trung và hoạt động địa
chất của biển. Do hệ thống các con sông miền Trung ngắn, độ dốc lớn, nên vận tốc
dòng chảy lớn, khiến sản phẩm tích tụ được thường thô, chủ yếu là cát các loại. Mặt
khác, các sông suối lại bắt nguồn từ các khu vực có cấu tạo bởi các loại đá mẹ khó
phong hóa như granit, riolit, cát kết... nên các sản phẩm phong hóa trong nước sông
cũng rất thô.
Theo phân loại hiện nay đất cát có 7 loại (đơn vị) là:
109
- Đất cồn cát trắng vàng (Cc) - Luvic Arenosols (ARl)
- Đất cồn cát đỏ (Cđ) - Rhodic Arenosols (ARr)
- Đất cát điển hình (C) - Haplic Arenosols (ARh)
- Đất cát mới biến đổi (Cb) - Cambic Arenosols (ARb)
- Đất cát potzon (Co) - Albic Arenosols (ARa)
- Đất cát glây (Cg) - Gleyic Arenosols (ARg)
- Đất cát feralit (Cf) - Feralit Arenosols (ARo)
Trên bản đồ tỷ lệ lớn hay trung bình, các nhà thổ nhưỡng còn tách ra một số
loại nữa:
- Đất giồng cát - đây là đất cát cổ tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thường là những dải cát dài, hình vòng cung theo bờ biển nhưng ở sâu trong lục địa
(ở Cửu Long, Bến Tre, Bà Rịa...).
- Cát san hô - vỏ sò - phát triển trên nền biển cũ là san hô hay sò hến.
Nhưng chỉ có 3 loại có diện tích nhiều nhất là: Đất cồn cát trắng vàng, Đất cồn
cát đỏ, Đất cát điển hình.
Bảng 27 - Diện tích đất cát của các tỉnh và toàn vùng duyên hải Bắc Trung bộ
(Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp - 2002) (ha)
Diện tích T
T
Loại đất
ha %
Thanh
Hóa
Nghệ
An
Hà
Tĩnh
Quảng
Bình
Quảng
Trị
TT
Huế
1 Cồn cát
trắng
74.725 36,3 - - - 27.659 21.706 25.360
2 Cồn cát
vàng
19.102 9,3 1.190 1.990 12.340 - 3.582 -
3 Đất cát biển 106.148 51,7 19.590 26.430 25.680 5.653 8.945 19.850
4 Đất cát glây 5.723 2,7 - - - 3.850 323 1.550
Cộng 205.698 100 20.780 28.420 38.020 37.162 34.556 46.760
13.2.2.1. Cồn cát trắng vàng (Cc) - Luvic Arenosols (ARL)
Diện tích và phân bố
Cồn cát trắng vàng có diện tích khoảng 222.043 ha, thường phân bố ở vành
ngoài sát biển, có nơi sâu vào bên trong chạy dọc song song với bờ biển.
Sự hình thành
Do hoạt động của thủy triều, do đặc điểm hình thành nên địa hình của các khu
vực khác nhau có nơi tương đối bằng phẳng, có nơi lượn sóng, nhưng có nơi lại tạo
thành những đụn cát cao thấp; Có nơi cồn cát cao đến 20-30 m, có nơi cát còn đang
tình trạng di động mạnh (“cát bay”, “cát nhảy”) gây ảnh hưởng lớn đến đời sống
dân sinh trong vùng. Những cồn cát chạy song song với bờ biển có sườn dốc về
phía đất liền: đó là do hoạt động của gió biển. Vào mùa gió bão có thể cả đụn cát
lớn di chuyển và lấp cả một khu đồng nằm sâu hơn về phía đất liền và có khi mưa
lớn đã tạo thành các rãnh xói sâu 8-9m và rộng 2-3m.
Tính chất cồn cát trắng vàng
110
Nói chung là loại đất chưa phát triển, các tầng chưa phân biệt rõ ràng; đồng
nhất từ trên xuống về thành phần cấp hạt.
Thành phần cồn cát chủ yếu là thạch anh (SiO2 99%), nên có thể sử dụng
vào xây dựng được.
Thành phần nông hóa có thể nói là rất nghèo pHKCl dao động từ 4,7-5,6; mùn
và đạm rất nghèo (<0,5% và <0,03%); lân tổng số và lân dễ tiêu nghèo (0,02 -
1,1mg/100g đất); cation trao đổi chỉ đạt 2lđl/100g đất. Do thoáng khí nên tỷ lệ C/N
thấp (< 7).
Hướng sử dụng
Hiện nay trên đất cồn cát vàng có ẩm độ khá, người dân thường trồng các
loại sắn, khoai lang, đỗ, vừng, kê, thuốc lá,... tuy nhiên năng suất đạt được thấp.
Còn ở loại cồn cát trắng gần như không trồng cây gì hoặc chỉ có cây phi lao phòng
hộ để ngăn chặn tình trạng di động mạnh của các cồn cát khi có gió bão.
13.2.2.2. Đất cồn cát đỏ (Cđ) - Rhodic Arenosols (ARr)
Diện tích và phân bố
Cồn cát đỏ với diện tích 76.886 ha, phân bố ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình
Thuận.
Sự hình thành
Đất cồn cát đỏ hình thành trong điều kiện tương tự như đất cồn cát trắng vàng
nhưng cổ hơn và nằm ở độ cao lớn hơn cồn cát trắng vàng. Đất cồn cát đỏ là do
hoạt động nâng lên của đới Đà Lạt vào kỷ đệ tứ.
Quá trình tích lũy Fe2O3 (làm cho đất có màu đỏ) được giải thích như sau:
Trong thời kỳ cuối Plioxen đến Pleitoxen hoạt động núi lửa rất mạnh ở khu vực
đông nam châu Á (từ Malaixia đến Hải Nam), các khu vực Bazan được hình thành
đủ để trong nước biển có hàm lượng muối tan cao. Muối tan trong nước càng cao
nước càng trong, ánh sáng mặt trời càng có điều kiện chiếu xuống sâu và nhiệt độ
nước được tăng lên. Nhờ vậy lượng oxit tan trong nước biển nhiều, thêm vào đó sự
hoạt động của vi sinh vật cũng mạnh lên, kết quả muối của oxit sắt mới tạo thành
Fe2O3. Một mặt đây là vùng khô hạn lượng mưa ít hơn lượng bốc hơi nên muối sắt
dần dần cũng được di chuyển lên mặt đất.
Cấu tạo phẫu diện
So với đất cồn cát trắng vàng sự phân tầng đã rõ nét hơn. Lấy phẫu diện ở Bắc
Bình (Bình Thuận) làm ví dụ:
0 - 10cm: Nâu đỏ, cát pha, có rễ cây.
10 - 14cm: Đỏ nâu, cát tơi, hơi ẩm, chuyển lớp từ từ.
14 - 110cm: Đỏ nâu tươi, cát tơi, hơi ẩm.
Tỷ lệ sét và limon cao hơn cồn cát trắng vàng (sét vật lý khoảng trên 10%).
Tính chất
Số liệu phân tích phẫu diện trên cho thấy đất chua (pHKCl ≥ 5.0) nghèo dinh dưỡng
các chất tổng số mùn, lân, kali thấp (0,32 ; 0,01 và < 0,1). Các chất dễ tiêu rất thấp
111
(1,9mg P2O5/100g đất); tổng cation trao đổi bé (Ca2++ Mg2+ = 1,75lđl/100g đất); tỷ lệ
C/N rất bé (3,8).
Đất cát nên dễ bị xói mòn, khả năng giữ phân và nước kém.
Hướng sử dụng và cải tạo
Hiện nay đại bộ phận đất đang bị bỏ hoang. Một số nơi thấp hơn, mùa mưa
đang được trồng các loại cây như khoai lang, sắn, lạc, đậu đỗ, vừng, dưa lấy hạt,
đào lộn hột, mít, mảng cầu,... Đặc biệt một diện tích ở Hòa Thắng - Bắc Bình được
trồng bông với năng suất 10 - 12 tạ/ha.
Ở những nơi có điều kiện tưới có thể trồng đậu xanh (tháng 1-4), khoai lang
(tháng 8 - 12), dưa lấy hạt (tháng 3 - 7), lạc (tháng 7 - 10).
Với những cồn cát đỏ di động, phải kịp thời trồng phi lao ngăn cát. Vùng đồi
cao, dốc còn rừng thì phải bảo vệ và bổ sung trồng thêm cây làm vành đai phòng
hộ.
13.2.2.3. Đất cát điển hình (C) - Haplic Arenosols (ARh)
Diện tích và phân bố
Đất cát có diện tích lớn nhất trong nhóm đất cát khoảng 234.505 ha. Phân bố
chủ yếu từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.
Hình thành do sự bồi lắng phù sa biển kết hợp với sự hình thành cồn cát ở ven
biển thấp, thoải, tạo ra những dải đất khá bằng phẳng tiếp giáp với biển hoặc cồn
cát.
Cấu tạo phẫu diện đất
Mô tả hình thái các phẫu diện điển hình:
- Phẫu diện ở bãi cát thôn Quang Trung, xã Minh Hải, huyện Tĩnh Gia, Thanh
Hoá:
0 - 19 cm: Màu trắng vàng, hơi ẩm, rất ít mùn, cát mịn, rời rạc, chuyển lớp
từ từ.
19 - 60 cm: Màu xám trắng, ẩm, cát mịn, chuyển lớp từ từ.
60 - 110 cm: Màu trắng, ẩm, lẫn vỏ trai, ốc.
- Phẫu diện ở thôn Ninh Đức, xã Diễn Tân, huyện Diễn Châu, Nghệ An:
0 - 20 cm: Màu nâu nhạt, hơi ẩm, cát mịn, chuyển lớp từ từ.
20 - 55 cm: Màu nâu vàng, cát mịn, hơi xốp, có lẫn vỏ sò, hến, kết von màu
đen, chuyển lớp từ từ.
55 - 100 cm: Màu vàng nâu, lẫn nhiều vỏ sò, hến, trai, ốc, cát mịn, hơi chặt,
chuyển lớp từ từ.
- Phẫu diện ở xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải, Bình Thuận, đất trồng khoai lang
và rau, độ cao so với mặt biển 3 m:
0 - 18 cm: Màu xám tro, cát pha, hạt nhỏ, hơi ẩm, nhiều rễ cây, chuyển lớp
tương đối rõ.
18 - 30 cm: Màu xám trắng, cát pha, hơi ẩm, có ít rễ cỏ, chuyển lớp hơi rõ về màu
sắc.
30 - 54 cm: Màu xám vàng, cát tơi, rời rạc, ẩm, chuyển lớp từ từ.
54 - 80 cm: Màu vàng nhạt, cát tơi, rời rạc, ẩm, có nhiều vệt loang lổ đỏ vàng,
112
chuyển lớp tương đối rõ.
80 - 115
cm:
Màu vàng xám, cát tơi, rời rạc, rất ẩm, chuyển lớp từ từ.
115-150
cm:
Màu xám đen, cát tơi, rời rạc, rất ẩm, chuyển lớp từ từ.
- Phẫu diện đất cát điển hình trồng lúa:
A: Tầng canh tác - dày 13-15cm: Cát pha, xám trắng.
D: Tầng đế cày: Cát pha sét, chặt.
V: Tầng vàng gạch cua - dày 10-
15cm:
Tầng phát sinh do trồng lúa nước sét nhẹ.
G: Tầng glây: Xám xanh nhạt, phát sinh do trồng lúa.
B: Tầng bồi tụ: Có sản phẩm glây, feralit, loang lổ đỏ
vàng, thường gặp nhiều kết von.
Tính chất đất
- Nói chung đất có thành phần cấp hạt từ cát pha đến cát pha sét. Đất rời rạc,
tơi, kết cấu kém gặp mưa thường bị lắng rẽ như đất bạc màu.
- Về tính chất hóa học: hàm lượng các chất tổng số thấp (mùn 0,1-1,25%; N
0,03-0,08%; P2O5 0,02-0,04%; K2O 0,1-1%); các chất dễ tiêu cũng nghèo (đạm thủy
phân 2-3mg/100g đất, P2O5 3-6mg/100g đất, K2O 4-8mg/100g đất); tỷ lệ C/N thấp
(≤ 5); CEC bé (3,3-8lđl/100g đất), tổng số cation kiềm trao đổi từ 1,5 - 6 lđl/100g
đất. Đất có phản ứng trung tính - ít chua (biến động từ 4,5-7,5); đất có khả năng giữ
phân và nước kém, tính đệm yếu.
Hướng sử dụng và cải tạo
Tùy theo địa hình và điều kiện thủy lợi mà có thể trồng lúa, các loại hoa
màu, đậu đỗ, mía, nơi cao hơn thì có thể trồng cây lâu năm các loại.
Nói chung là loại đất có độ phì nhiêu thấp. Một phần đã được đưa vào sản xuất,
nhưng một phần khá lớn đang bị bỏ hoang đặc biệt là ở phía Nam.
+ Trước hết phải chú ý tới thủy lợi để đảm bảo đủ nước, nhất là ở những khu
trũng hơn thì có thể đưa vào trồng lúa nước để đáp ứng một phần nhu cầu lương
thực tại chỗ.
+ Về phân bón cần chú ý tăng cường hữu cơ để tăng mùn và tạo kết cấu.
Bón phân hữu cơ và phân bón tổng hợp NPK với một tỷ lệ cao hơn các loại đất
khác; bón phân hữu cơ vùi sâu để tránh khoáng hóa quá nhanh; Phân hóa học nên
chia ra để bón nhiều lần mới có hiệu quả, không nên bón tập trung một lúc. Việc
tăng bùn ao, sét là biện pháp hiệu quả nhất, nhưng khó thực hiện. Nhiều nơi có
nguồn rong ở các đầm phá thì dùng rong bón cho vùng đất cát rất tốt.
+ Về cây trồng cần có cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện đất nghèo dinh
dưỡng, khô hạn và khí hậu khắc nghiệt. Ở đây nên luân canh trồng cây họ đậu như
lạc, các loại đậu để giải quyết nguồn đạm.
Về lâu dài dành nhiều cho việc bảo vệ ven biển, tạo những cơ sở cho nghỉ mát du
lịch, phát triển một số cây trồng thích nghi: lúa (ở địa hình thấp), đậu đỗ, dưa hấu (ở
địa hình cao) và cây lấy gỗ, phân xanh, điều. Duy trì những cây đặc thù như dừa,
113
phát triển làm vườn nhưng phải hạ đất và thâm canh cao, đặc biệt phủ kín lớp đất
mặt, chống rửa trôi.
13.2.3. NHÓM ĐẤT MẶN (M) - Salic Fluvisols (FLS) hoặc Solonchaks (SC)
Diện tích 971.356 ha, chiếm 2,93% diện tích tự nhiên của cả nước.
Phân bố chủ yếu ở ven biển đồng bằng Nam Bộ (như các tỉnh Minh Hải, Bạc
Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang,...), ở đồng bằng Bắc Bộ (Nam
Định, Thái Bình, Hải Phòng...) và đồng bằng các tỉnh miền Trung.
Đất mặn được hình thành ở những nơi có địa hình thấp, ven biển (phần lớn <
1m; cao nhất chỉ khoảng 2m); ở những nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp
của thủy triều, hoặc ảnh hưởng gián tiếp của biển (nước ngầm mặn chứa nhiều muối
hòa tan), hoặc hơi mặn từ biển do gió thổi vào.
Trong đất mặn có chứa nhiều loại anion, theo thứ tự: Cl- > SO42- > HCO3- >
CO32- trong đó 2 anion Cl- và SO42- gây nhiều tác hại cho cây trồng.
Còn hàm lượng các cation trong đất mặn thường theo thứ tự: Na+ > Ca2+ > Mg2+
> K+
Dựa vào nồng độ muối tan hoặc nồng độ Cl- để phân cấp độ mặn của đất như
bảng sau:
Bảng 28 - Phân cấp độ mặn của đất
Phân cấp Nồng độ muối tan (%) Nồng độ Cl- (%)
+ Đất rất mặn > 1,0 > 0,25
+ Đất mặn nhiều 0,5 - 1,0 0,15 - 0,25
+ Đất mặn trung bình 0,25 - 0,5 0,05 - 0,15
+ Đất mặn ít < 0,25 < 0,05
Nồng độ và thành phần muối tan quyết định mức độ gây hại. Khi nồng độ muối
tan cao, áp suất thẩm thấu lớn để ngăn chặn sự xâm nhập của nước và tế bào thực
vật, mặt khác, nếu các muối xâm nhập vào cơ thể nhiều, tích lũy lại cũng có khả
năng gây độc.
- Dựa vào điều kiện hình thành và tính chất mặn, nhóm đất mặn được chia làm 3
loại:
+ Đất mặn sú vẹt đước (Mm)-Gleyic salic Fluvisols (FLsg) hoặc Gleyic Solonchaks
(SCg)
+ Đất mặn nhiều (Mn) - Haplic salic Fluvisols (FLs) hoặc Haplic Solonchaks
(SCh).
+ Đất mặn trung bình và ít (M)-Mollic salic Fluvisols (FLsm) hoặc Mollic Solonchaks
(SCm).
Trong đó diện tích đất mặn trung bình và ít chiếm tỷ lệ cao nhất (75%).
13.2.3.1. Đất mặn sú vẹt đước (Mm) - Gleyi Salic Fluvisols (FLsg)
Diện tích: 105.318 ha, chiếm 0,34% diện tích tự nhiên toàn quốc và 10,63%
diện tích nhóm đất mặn.
Phân bố: Chủ yếu ven biển Nam Bộ, nhiều nhất ở Cà Mau. Hàng ngày đất còn
chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển khi thủy triều dâng. Thực vật gồm những cây ưa
nước và chịu được mặn như: sú (Acgiceras magas), vẹt (Bruguiera pavirora;
114
Bruguiera xexangula), đước (Rhizophora), bần (Sonneratica caseolaris L.) và một
số cây khác như dừa nước (Nipa fruticans), ráng,... phát triển mạnh tạo thành rừng
rậm.
Loại đất này nhiều nơi còn ở dạng bùn lỏng, lầy, rất mặn, phản ứng trung tính
hoặc kiềm yếu. Hàm lượng mùn cao do tàn tích thực vật nhiều. Đất có thành phần
cơ giới nặng (ở Nam Bộ) và trung bình (ở miền Bắc). Đạm tổng số trung bình - khá,
lân tổng số trung bình (0,06-0,11%), lân dễ tiêu nghèo (3 – 8 mg/100g đất), kali
tổng số giàu, kali dễ tiêu khá - giàu, cation trao đổi thấp.
Đất này nên ưu tiên cho lâm nghiệp phát triển rừng cây sú, vẹt, đước, ngoài
tác dụng chắn gió, chắn sóng, cung cấp củi, gỗ, rừng còn góp phần cố định đất, tăng
cường sự lắng đọng phù sa làm cho đất cao dần, chặt dần, tiến tới thoát khỏi ảnh
hưởng của thủy triều. Khi đất ít mặn dần, người ta có thể quai đê, rửa mặn để sử
dụng trồng trọt các loại cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra người ta còn sử dụng mô hình Ngư - Lâm kết hợp để nuôi trồng các
loại thuỷ, hải sản (như: tôm, cua,...).
13.2.3.2. Đất mặn nhiều (Mn) -Hapli Salisols hoặc Haplic Salic Fluvisols
(FLs)
hoặc Haplic Solonchaks (SCh).
Diện tích: 133.288 ha, chiếm 0,42% diện tích tự nhiên toàn quốc và 15,0%
diện tích nhóm đất mặn, nhiều nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long (102.000 ha).
Đất mặn nhiều thường ở địa hình thấp ven biển, cửa sông, độ cao 0,5 - 0,8 m,
sự thay đổi độ mặn theo 2 mùa: Về mùa mưa, luồng nước mưa, nước ngọt từ
thượng nguồn đuổi nước mặn ra xa làm ngọt tầng đất mặt, nên người ta vẫn có thể
trồng cấy được. Vì vậy có thể gọi đây là loại đất mặn thời vụ.
Đất mặn nhiều thường chứa các chất dinh dưỡng từ trung bình - khá, nhất là ở
Nam Bộ; Thành phần cơ giới từ sét đến limon hay thịt pha sét. Đất mặn nhiều ở Nam
Bộ thường có thành phần cơ giới nặng hơn và sâu hơn. Đất mặn ở miền Bắc thường
có thành phần cơ giới trung bình (limon hay thịt pha sét) và có nền cát hay cát pha ở
độ sâu chưa đến 100 cm và ở độ sâu khoảng 50 - 80 cm thường gặp lớp cát xám
xanh, có xác vỏ sò, ốc biển.
Bảng 29 - Số liệu trung bình về đất mặn nhiều một số vùng(tầng đất 0 - 20 cm):
Cation trao đổi
(lđl/100gđấ t)
Tổng số (%)
Vùng đất
pHKCl
Mùn
(%)
Ca++ Mg+
+
N P2O5
C/
N
Cl-
(%)
+ Đồng bằng sông Cửu Long 5,5 2,52 3,62 9,34 0,11 0,04 13 0,25
+ Đồng bằng sông Hồng 7,0 2,56 6,64 5,92 0,20 0,11 7 0,29
+ Duyên hải Nam Trung Bộ 4,8 2,35 6,28 4,92 0,14 0,08 10 0,17
+ Khu 4 cũ 6,4 2,60 3,70 2,66 0,16 0,06 7 0,47
Hiện nay loại đất này thường chỉ sử dụng trồng một vụ lúa về mùa mưa, còn về
mùa khô thường bỏ hoang. Một số vùng sử dụng để gieo trồng lúa đặc sản địa
phương chất lượng cao.
115
Biện pháp thuỷ lợi, quai đê, dẫn nước ngọt, rửa mặn để trồng lúa là biện pháp
truyền thống, nhưng chi phí cao và không phát huy thế mạnh của vùng. Nông dân
nhiều vùng ở đồng bằng sông Hồng áp dụng biện pháp vượt đất để có các dải đất
cao trồng cây trồng cạn, vùng đất thấp cấy lúa hay làm ao nuôi cá.
Nhiều vùng đất mặn nhiều ở Nam Bộ, nông dân lợi dụng nước thuỷ triều, đưa
vào đồng ruộng cả nguồn tôm cua. Ở đây nuôi tôm theo cách vượt đất, phát triển ở
rãnh. Với phương thức này, nông dân đã thu nguồn lợi tôm gấp mười lần trồng lúa.
13.2.3.3. Đất mặn trung bình và ít (M) - Molli Salic Fluvisols (FLsm) hoặc
Mollic Solonchaks (SCm).
Diện tích là 732.584 ha, chiếm 2,4% diện tích tự nhiên toàn quốc và 75% diện
tích nhóm đất mặn, nhiều nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long: 586.422 ha (80,5
%).
Phân bố bên trong vùng đất mặn nhiều tiếp giáp đất phù sa, đại bộ phận ở địa
hình trung bình và cao, nhưng còn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.
Đất mặn là loại đất trẻ, được hình thành trong thời gian gần đây, do vậy cấu
tạo phẫu diện tương đối đơn giản, các tầng phát sinh thể hiện chưa rõ rệt, các tầng
đất khác nhau chủ yếu là thành phần cơ giới.
Ví dụ: phẫu diện đất mặn ít ở Vĩnh Thành-Vĩnh Linh-Quảng Trị trên đất
trồng lúa, mạ, khoai lang:
0-12cm: Xám nâu vàng, đốm gỉ nâu đỏ, mịn, dẻo quánh, một ít xác thực
vật, chuyển lớp rõ về độ chặt.
12-32cm: Nâu xám, đốm gỉ sắt, mmàu vàng, sét mịn, rất chặt, cấu trúc tảng,
chuyển lớp rõ về màu sắc.
32-55cm: Vàng loang xám, đốm gỉ sắt nâu đỏ, sét, mịn, rất chặt, cấu trúc
tảng, chuyển lớp rõ về màu sắc.
55-100cm: Xám, loang lỗ vàng, sét, mịn, chặt, bí, glây trung bình, cấu trúc
tảng.
+ Tính chất vật lý:
Đất có thành phần cơ giớ nặng, đất phân tán, do tác dụng của ion Na+ nên đất
thường phân tán mạnh, không có kết cấu, rất dẻo, dính khi gặp nước, khi khô thì nứt
nẻ, rắn chắc, váng muối bốc hơi lên mặt đất. Có sét vật lý từ 50-60%, cát vật lý 15-
20%, tính chất xấu nên cày bừa khó khăn.
+ Một số tính chất hóa học:
Hàm lượng mùn tầng mặt 1,4-3,3%, tỷ lệ C/N 7-11; N% 0,11-0,18%; P2O5%
0,03-0,09%, lân dễ tiêu nghèo 2-7mg/100g đất. kali trao đổi khá (đặc biệt cao ở khu
4 cũ và nam Trung Bộ 16-27mg/100g đất). Đất có phản ứng trung tính, hơi chua
hoặc trung tính, pHKCl thay đổi từ 4,9-6,3.
116
Bảng 30 - Số liệu trung bình về đất mặn trung bình và ít một số vùng (tầng đất 0 - 20
cm):
Vùng đất
Cation trao đổi
(lđl/100gđấ t)
Tổng số (%)
pHKCl
Mùn
(%)
Ca++ Mg+
+
N P2O
5
C/N
Cl-
(%)
+ Đồng bằng sông Cửu Long 4,9 3,33 6,47 8,67 0,18 0,04 11 0,15
+ Đồng bằng sông Hồng 5,8 1,90 6,00 8,80 0,14 0,09 7 0,08
+ Duyên hải Nam Trung Bộ 5,3 1,42 3,40 4,50 0,11 0,03 8 0,18
+ Khu 4 cũ 6,3 1,61 3,60 6,13 0,14 0,05 8 0,10
- Hiện nay đại bộ phận đất này được trồng 2 vụ lúa, những nơi chủ động tưới
tiêu thường vẫn cho năng suất cao. Nói chung khai thác vùng đất mặn trồng lúa là
việc làm cần thiết để giải quyết lương thực tại chỗ, đặc biệt là trồng các giống lúa
đặc sản chất lượng cao.
Ngoài ra từng bước giành ưu tiên cho nuôi trồng thuỷ sản, không nên ngọt hoá
tuỳ tiện, vì làm như vậy sẽ không giữ được môi trường sinh thái để sử dụng đa dạng
và hiệu quả hơn.
- Cải tạo đất mặn:
Đất mặn là một loại đất xấu, muốn sử dụng đất đạt hiệu quả cao phải tiến hành
cải tạo, mục đích cải tạo đất mặn nhằm:
- Giảm tổng số muối tan đến mức bình thường.
- Tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng cần thiết.
- Dần dần cải thiện tính chất vật lý, làm đất có kết cấu.
Để cải tạo đất mặn, cần thực hiện một loạt các biện pháp như thủy lợi, cơ cấu
cây trồng, phân bón... trong đó thủy lợi là biện pháp hàng đầu.
+ Biện pháp thủy lợi: Xây dựng hệ thống mương tưới để rửa mặn, hệ thống
mương tiêu để tiêu mặn và hạ thấp mực nước ngầm mặn.
Thường áp dụng 3 hình thức rửa mặn: Rửa trên mặt, rửa thấm và rửa theo
phương pháp kết hợp hai kiểu trên.
- Rửa trên mặt: Dẫn nước ngọt vào, làm đất, muối tan được rút ra khỏi phức hệ
thấp thu hòa vào dung dịch đất tháo nước này xuống các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KHOA_HOC_DAT_ghep.pdf