Bài giảng Khái quát văn học hiện đại Nhật Bản

Thời Edo (1603 – 1867): Nhật đóng cửa đất nước suốt hơn hai thế kỷ. Chế độ Mạc Phủ ra chính sách “bế quan tỏa cảng”, cấm thương nhân Nhật thông thương với nước ngoài.

Càng về sau, chế độ cai trị của chính quyền Mạc Phủ ngày càng trở nên lỗi thời. Thời điểm này, Mĩ liên tục tạo áp lực đối với chính quyền Nhật Bản  Chế độ Mạc Phủ phải xóa bỏ chính sách “bế quan tỏa cảng”.

Khoảng giữa TK XIX, mâu thuẫn giữa nền kinh tế tư bản và quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra và chế độ phong kiến Mạc Phủ khủng hoảng trầm trọng.

1868: cuộc Cách mạng của Thiên Hoàng Mitshuhito thắng lợi, xóa bỏ hoàn toàn chế độ Mạc Phủ, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử Nhật Bản: Minh Trị Duy Tân.

 

ppt31 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Khái quát văn học hiện đại Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÁI QUÁT VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN NỘI DUNG Bối cảnh lịch sử, xã hộiTình hình văn họcCác nhà văn tiêu biểuKết luậnI. Bối cảnh lịch sử, xã hội Nhật Bản 3 thời kỳ: + Meji: 1868 – 1912+ Taiso: 1912 – 1926+ Showa:1926 – 1989Thời Edo (1603 – 1867): Nhật đóng cửa đất nước suốt hơn hai thế kỷ. Chế độ Mạc Phủ ra chính sách “bế quan tỏa cảng”, cấm thương nhân Nhật thông thương với nước ngoài.Càng về sau, chế độ cai trị của chính quyền Mạc Phủ ngày càng trở nên lỗi thời. Thời điểm này, Mĩ liên tục tạo áp lực đối với chính quyền Nhật Bản  Chế độ Mạc Phủ phải xóa bỏ chính sách “bế quan tỏa cảng”. Khoảng giữa TK XIX, mâu thuẫn giữa nền kinh tế tư bản và quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra và chế độ phong kiến Mạc Phủ khủng hoảng trầm trọng. 1868: cuộc Cách mạng của Thiên Hoàng Mitshuhito thắng lợi, xóa bỏ hoàn toàn chế độ Mạc Phủ, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử Nhật Bản: Minh Trị Duy Tân. Nhật Bản bắt đầu mở cửa, giao lưu với thế giới sau mấy trăm năm bị kìm hãm. 1. Thời Minh Trị Thời kỳ có tính chất bước ngoặt. Thiên hoàng Minh Trị đã có nhiều chính sách cải cách quan trọng, “duy tân” đất nước: + Bãi bỏ chế độ đẳng cấp khắt khe + Đẩy mạnh giao lưu, tiếp xúc với thế giới về mọi mặt+ Thay lịch âm bằng lịch dương + Đổi mới to lớn trong giáo dục: xóa bỏ phân biệt giới tính địa vị; Giáo dục dành cho phụ nữ -> bước tiến lớn của phong trào Duy tân.  Từ một nước quân chủ chuyên chế, Nhật tiến nhanh lên con đường TBCN với tốc độ rất cao, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa và chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa quân phiệt. 2. Thời Taiso (1912 – 1926) và Showa (1926 – 1989) 1912: Nhật Hoàng qua đời, kết thúc triều đại Minh Trị, mở ra thời kỳ lịch sử mới với hai triều đại Taiso và Showa do hoàng đế Taisho và hoàng đế Hirohito trị vì. Đây là thời kỳ bất thường nhất của Nhật Bản; được đánh dấu bằng các cuộc chiến tranh xâm lược, nhằm thực hiện tham vọng bành trướng: + Chiến tranh Trung – Nhật: 1894 – 1895 + Chiến trann Nga – Nhật: 1904 – 1905 + Chiến tranh Thế giới II: 1939 – 1945NB huy động toàn bộ tiềm lực kinh tế cho chiến tranh xâm lược này. Nhưng đã thất bại hoàn toàn. Giai đoạn lịch sử đen tối nhất của nước Nhật. Xuất hiện một nền “văn hóa đại chúng”, phát triển song song với các trào lưu dân chủ. Giới trí thức thời này có một môi trường sinh hoạt khá thoải mái hơn thời Minh Trị. Xuất hiện phong trào khuyến khích thanh niên sống và ăn mặc theo mốt hiện đại kiểu Phương Tây.Thời kỳ này, sách báo được xuất bản nhiều chưa từng thấy, tạo tiền đề và điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và văn học. Chiến tranh TG 2 kết thúc, Nhật Bản trở thành một đất nước hoang tàn, kiệt quệ, không còn gì, hoàn toàn mất tinh thần. Sự bại trận, thảm họa bom nguyên tử và thời kỳ chiếm đóng của Mỹ trở thành những cú sốc tinh thần to lớn, để lại những vết thương sâu sắc trong tâm hồn người Nhật.  Giai đoạn khủng hoảng đối với nền văn hóa, đạo đức truyền thống Nhật Bản. Sau 1954, nền kinh tế Nhật được phục hồi và phát triển thần tốc, đặc biệt là vào những năm 1960 – 1970. Làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ ở Nhật, biến Nhật trở thành một trong những nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới (đứng thứ 2). Đến nay, Nhật Bản là một nước dân chủ kiểu phương Tây với nền chính trị ổn định, kinh tế phát triển nhanh và ổn định,tỷ lệ tội phạm ít, xung đột giai cấp dường như không có, do xã hội Nhật đã hình thành giai cấp trung lưu, chiếm hầu hết dân số. Về mặt văn hóa, xã hội, tuy rất phát triển về mặt kinh tế nhưng Nhật Bản vẫn giữ được cấu trúc văn hóa và những giá trị truyền thống. Bí quyết nào đã giúp Nhật Bản thành công như vậy? Liệu cuộc hôn phối giữa một nền văn hóa có ý thức cộng đồng, tôn ti trật tự, theo then nhiên với một nền văn hóa trọng cá nhân chủ nghĩa, tự do tư sản, dựa trên kĩ thuật và tiêu thụ có lâu bền? II. Tình hình văn họcVấn đề phân kỳ văn học hiện đại Nhật BảnCó ba quan điểm phân chia:(1) VH hiện đại Nhật Bản có 3 giai đoạn:Thời Duy Tân Minh Trị (1868 – 1912)Thời Taiso (1912 – 1926)Thời Showa (1926 – 1989)(2) Có 4 giai đoạn: Thời Duy Tân Minh Trị (1868 – 1912)Thời Taisho (1912 – 1926)Thời Showa tiền chiến (1926 – 1941)Showa hậu chiến (1941 – 1989)(3) Một số học giả với quan niệm cởi mở, họ cho rằng văn học hiện đại Nhật Bản không chỉ trong khoảng từ 1868 đến 1989 mà còn phải kể đến các nhà văn thời đại Heisei (cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI). 1. Một số đặc điểm cơ bản của văn học hiện đại Nhật BảnQuá trình hiện đại hóa nền văn học diễn ra song song với quá trình Nhật Bản hiện đại hóa đất nước (bắt đầu từ thời Duy Tân Minh Trị). Nhưng việc “hiện đại hóa văn học” diễn biến đa dạng và phức tạp hơn. Giai đoạn đầu, văn học hiện đại Nhật Bản tiếp thu nền văn học phương Tây trên cơ sở dịch thuật các tác giả, tác phẩm lớn. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, hầu kết tinh hoa văn học nhân loại dường như đều có mặt ở Nhật Bản với những tên tuổi: Dostoievski, Nietzche, Jame Joyce, Proust Chính điều này đã trở thành nhân tố kích thích sự phát triển nền văn học Nhật Bản.Song song với việc dịch những tác phẩm kinh điển của văn học Châu Âu là sự mô phỏng nhiều sáng tác nổi tiếng: Robinson Crusoe (Defoe), Không Tưởng (Thomas More), Sự thú tội (Rousseau), Hamlet, Vua Lear, Người lái buôn thành Venice (Shakespeare) Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, văn học Nhật đã hội tụ đầy đủ các học thuyết, trường phái, chủ nghĩa trong văn học thế giới: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa tự nhiên, phân tâm học Năm 1885: dấu mốc đánh dấu bước ngoặt về sự cách tân của nền văn xuôi Nhật Bản, với sự xuất hiện cuốn “Tinh túy của tiểu thuyết” của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Tsubouchi Shoyo.  Mở ra một giai đoạn mới cho nền văn học Nhật Bản: văn xuôi chiếm vị trí trung tâm.Một số nhà văn bắt đầu sáng tác theo khuynh hướng hiện đại. Xuất hiện hàng loạt những cây bút đầy tài năng trong nền văn học Nhật Bản. Đây là lực lượng sáng tác mới, quyết định sự bứt phá của một nền văn học nội sinh. (những tên tuổi như: Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Mishima Yukio, )2.Vai trò của các tạp chí văn học và hoạt động phê bình Các tạp chí văn học không chỉ đóng vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Nhật Bản mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự nghiệp sáng tác của các nhà văn. + Mỗi tờ tạp chí có thể coi là phát ngôn của các khuynh hướng, trào lưu khác nhau  giúp người đọc có thể nhận diện một cách rõ ràng sự khác biệt của các khuynh hướng, trường phái sáng tác.+ Các tạp chí này hầu hết là những tổ chức có cơ cấu hết sức chặt chẽ và được vận hành chuyên nghiệp  tạo nên một bối cảnh văn học mới, thúc đẩy nền văn học hiện đại phát triển với phạm vi rộng lớn hơn.+ Xét về mặt lịch sử văn học, các tạp chí này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của phê bình, lí luận trong văn học. Hoạt động phê bình văn họcVăn học Nhật có cả một truyền thống lâu đời về hoạt động phê bình văn học.Các nhà văn lớn đồng thời cũng là những nhà phê bình xuất sắc (Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, Akutagawa, Kawabata, Mishima Yukio)Hoạt động phê bình đã thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sáng tác văn học, sự phát triển của lí luận, mĩ học Nhật Bản. Đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa, thúc đẩy sự phát triển của VHNB. III. CÁC NHÀ VĂN TIÊU BIỂU MORI OGAI (1862 – 1922 )Một trong 3 nhà văn được coi là lớn nhất Nhật Bản và được giảng dạy trong chương trình THPT (cùng mới Soseki và Akutagawa)Sinh trưởng trong một gia đình Samurai ở thị trấn Tsumano (hiện nay là quận Shimawe)Tốt nghiệp khoa Y đại học Tokyo năm 1881. Làm bác sĩ quân y trong quân đội.1884 được cử sang Đức học, bắt đầu dịch thuật một số tác phẩm tiếng Đức. Ông nghiên cứu sâu rộng triết học, văn học châu Âu và là nhà văn lớn đầu tiên của Nhật thể nghiệm cuộc sống, tư duy và tình cảm châu Âu.Là người đã có công đưa vào nền văn học Nhật tiểu thuyết cỡ vừa và thể loại tự truyện (watakushi shosetsu), tiểu thuyết lịch sử.Mori Ogai thể hiện khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa, đấu tranh cho cá nhân, chống lại những tư tưởng phong kiến trong xã hội. Ông được nhiều nhà văn thế hệ sau hâm mộ, coi là bậc thầy. NATSUME SOSEKI (1867 – 1916)Là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản, là nhà trí thức lớn, có nhiều đóng góp đối với nền văn học, triết học Nhật Bản. Ông học văn học và ngôn ngữ ở Anh. Hiểu biết rộng văn hóa phương Tây, tinh thông Thiền học và văn hóa cổ điền Trung Hoa. Dạy văn học Anh tại đại học đế chế Tokyo trước khi viết văn chuyên nghiệp.Soseki là nhà văn rất thành công và được nhiều người nể phục trên văn đàn. Nhiều nhà văn trẻ tìm đến ông để học hỏi và ông cũng rất quan tâm nâng đỡ những cây bút trẻ tài năng.Soseki là chủ soái của trường phái văn chương tâm lí cao sang (đối lập với trường phái tự nhiên). Ông là người thường có những tranh luận về văn học, mỹ học trên các tạp chí nổi tiếng và được nhiều người quan tâm.Tác phẩm Soseki thường phân tích cái tôi, nỗi cô đơn của người trí thức trong xã hội tư sản mang nhiều tàn tích phong kiến. Sự bế tắc của cá nhân và tư tưởng hoài nghi xã hội.TANIZAKI JUNICHIRO (1886 – 1965)Là nhà văn trọng yếu nhất của nền văn học hiện đại Nhật Bản.Ông được tôn sùng chủ nghĩa duy mỹ một cách tuyệt đối. Chủ đề ông phản ánh thường là những xung đột văn hóa, tinh thần Đông – Tây. Tiểu thuyết của ông được đánh dấu bởi tình dục và chủ nghĩa duy mỹ Tây hóa. Tanizaki bị hấp dẫn một cách mãnh liệt bởi tác phẩm vĩ đại Genji monogatari. Ông đã chuyển dịch lại tác phẩm sang ngôn ngữ Nhật hiện đại rất thành công. Các tác phẩm lớn của ông hầu hết đều chịu ảnh hưởng từ cảm hứng Genji. Người phụ nữ là đề tài chính trong những sáng tác của Tanizaki. Ông cũng là nhà phê bình xuất sắc với các bài viết gây được tiếng vang lớn trên các tạp chí văn học: “Các khái niệm đạo đức và các khái niệm thẩm mĩ”; “Phong cách nghệ thuật của một người kể chuyện hiện đại”.AKUTAGAWA RYUNOSUKE (1892 – 1927) Nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng nhất văn học Nhật Bản hiện đại thời Taiso.Tuy thấm nhuần văn hóa phương Tây nhưng Akutagawa lại tìm về với văn học cổ Nhật Bản. Đề tài ông yêu thích là những gốc truyện truyền thống, những câu chuyện lịch sử từ thế kỷ X – XII => truyện ngắn của ông còn được gọi là “truyện ngắn lịch sử”.Nhà văn ảnh hưởng chủ nghĩa duy mỹ. Chủ đề xuyên suốt sáng tác của Akutagawa là bộ mặt đạo đức của con người. Ông có cách phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Miêu tả khách.Truyện thường pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và huyền ảo, văn phong hoa mỹ nhưng súc tích, tinh tế, bố cục chặt chẽ. Đến nay, truyện ngắn Akutagawa được coi là di sản tinh thần vô giá của văn học Nhật.Tên ông được đặt cho giải thưởng văn học danh giá nhất ở Nhật: giải Akutagawa. KAWABATA YASUNARI (1899 – 1972) Kawabata sinh ở Osaka, có một cuộc đời đầy bất hạnh. Cảm thức cô đơn trong văn phẩm Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Kawabata nghiên cứu cả văn học Anh lẫn văn học Nhật ở Đại học Tokyo. Ông say mê thơ văn cổ điển như Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu, Sách gối đầu của Sein Shonagon lẫn các tác giả hiện đại Tây phương như Marcel Proust, James JoyceKhi còn là sinh viên ông đã cùng với Yokomitsu Riichi lập ra tờ Văn nghệ thời đại (Bungei jidai) làm cơ quan ngôn luận cho trường phái văn học Tân cảm giác (shinkankaku-ha) Kawabata được mệnh danh là “người lữ khách suốt đời đi tìm cái đẹp” Phong cách của ông là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa kỹ thuật viết văn phương Đông và phương Tây. Nhưng gốc rễ của ông vẫn là một nhà văn Nhật Bản. Năm 1968, Kawabata được trao tặng giải Nobel cho bộ ba tiểu thuyết: “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”, tròn 100 năm năm ngày Minh Trị Duy Tân bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước. (1868 – 1912).Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng ở Hayama, Kamakura.MISHIMA YUKIO (1925 – 1970)Thuộc thế hệ nhà văn trẻ nổi lên sau chiến tranh. Mishima hứng thú tìm về với truyền thống trong hình thức chiến binh. Ông tập luyện kiếm đạo và sống theo lí tưởng samurai.Là nhà văn thử nghiệm nhiều hình thức, phong cách văn học phương Tây.Mishima sớm thành công từ trẻ và trở thành nhà văn hiểu biết cả Đông Tây, mang phong cách duy mĩ đặc trưng.Mishima thường miêu tả những tâm trạng bệnh hoạn của thế hệ thanh niên thời kì hậu chiến, mang tâm trạng hoang mang trước thực tại và ít gắn bó với truyền thống. Sáng tác của ông thể hiện sự xung đột Đông – Tây, giữa hiện đại và truyền thống.Mishima cuối cùng chọn cái chết mổ bụng theo kiểu samurai. Hành động tự sát theo nghi thức mổ bụng của nhà văn được cho là mang ý nghĩa đánh thức dân tộc vì sự đánh mất tinh thần thượng võ. DAZAI OSAMU (1909 – 1948)Dazai Osamu, tên thật là Tsushima Shuui. Sinh trưởng trong một gia đình đại địa chủ vùng Tsugaru tỉnh Aomori, phía Đông Bắc Nhật Bản. 1930: tốt nghiệp cao đẳng. Sau đó Dazai chọn ban Văn học Pháp để nhập học trường Đại học đế quốc Tokyo. Nhưng quá trình học ở đây không được Dazai duy trì thường xuyên, ông thường bỏ học và tham gia các hoạt động của chủ nghĩa Cộng Sản. Cuộc đời của Dazai Osamu là cuộc đời đau thương và vỡ mộng với 5 lần tự sát nhưng phải đến lần thứ 5 mới được toại nguyện. Là một người có tài và ôm mộng văn chương nhưng ông thường rơi vào trạng huống vỡ mộng. Dazai Osamu thuộc dòng văn học “Vô lại phái” (Buraiha)Sáng tác theo phong cách tự thuật (tư tiểu thuyết: watakushi shosetsu)Trong sáng tác của ông phảng phất nụ cười kiểu “hài hước đen”, tự trào về bản thân và cuộc đời. Không khí u uất, buồn thương bao trùm trong những câu chuyện. Nhưng các nhân vật luôn chân thật đối với người, với đời. Tuy kết thúc của những tác phẩm thường bi thảm, tự hủy nhưng tác phẩm của Dazai vẫn toát lên ánh sáng của niềm tin, của lương tri và tình yêu thương con người, yêu cuộc sống... KENZABURO OE (1935 – ) Ông được coi là gương mặt đại diện tiêu biểu cho dòng văn học chống bom nguyên tử ở Nhật sau chiến tranh. Sáng tác của Oe mang đậm tính truyền thống, phong cách văn học dân gian và chủ nghĩa nghịch dị đặc trưng. Tác phẩm của ông khơi gợi nhiều vấn đề về thân phận con người, đi sâu vào bản thể của con người Nhật Bản thời hậu chiến và luôn thể hiện những nỗi u buồn, tối tăm, hỗn độn của nhân loại trong giai đoạn đầy đau thương, mất mát. Những nhân vật của Oe hầu hết có số phận bi kịch, nhưng thông qua tác phẩm của mình, Oe muốn hàn gắn nỗi đau con người, mang lại cho họ ánh sáng của niềm tin và ý nghĩa hiện sinh. Năm 1994, Oe là nhà văn Nhật Bản thứ hai nhận giải Nobel Văn học. HARUKI MURAKAMI (1949-)Murakami Haruki sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949 tại Kyoto, nhưng lớn lên tại thành phố Ashiya ở tỉnh Hyogo.Murakami say mê văn học và âm nhạc Âu – Mĩ. Thời niên thiếu, thích đọc sách, dịch các tác phẩm văn học phương Tây của các tác giả: Scott Fitzgerald, Kurt Vonnegut, Raymond Chandler, Richard Brautigan... khởi nghiệp năm 29 tuổi với tiểu thuyết Lắng nghe gió hát (giải Gunzo Shinjinsho lần thứ 22 vào năm 1979)Hàng loạt các giải thưởng trong nước: giải Nhà văn mới Noma lần thứ tư (Cuộc săn cừu hoang,1982); giải Tanizaki Junichiro (Xứ sở kì diệu tàn bạo và chốn tận cùng thế giới,1985)... Trở thành thần tượng của giới trẻ Nhật và Châu Á với Rừng Nauy (1987)Sang Mĩ sống và viết các tiểu thuyết. 1997: trở về Nhật sau động đất ở Kobe (1995) và vụ đánh hơi độc Sarin. Murakami là nhà văn Nhật Bản có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cầu. Ông được xem là hiện tượng hấp dẫn nhất của nền văn học đương đại Nhật Bản, người khổng lồ của văn học hậu chiến. Murakami Haruki đi vào lịch sử văn học Nhật Bản với vai trò là “nhà văn tiên phong” trong việc đổi mới nền văn học hiện đại. Tác phẩm của ông phẩn ánh sự trăn trở trước số phận con người trong xã hội hiện đại đầy bất an, phi lí. Xây dựng những hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Thế giới nhân vật của Murakami đa dạng, phong phú, và có tính phổ quát cao, đã phản ánh những tồn tại sâu kín của con người Nhật Bản và nhân loại nói chung trong thời hậu kì tư bản. Phong cách văn chương của Murakami ảnh hưởng bởi phương Tây, trong chừng mực nào đó có thể nói đó là sự tổng hợp tinh hoa của văn chương nhân loại. Nhưng trong sâu xa, ông vẫn giữ được gốc rễ tinh thần Nhật Bản. Văn học Nhật Bản từ sau khi xuất hiện Murakami, chia làm hai giai đoạn: Trước và Sau Murakami. Rất nhiều nhà văn trẻ đã chịu ảnh hưởng và sáng tác theo phong cách của ông. IV. Kết luận (1) Văn học hiện đại Nhật Bản không ngừng phát triển và đạt những thành tựu nổi bật trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và trong suốt thế kỷ XX.(2) Văn học hiện đại Nhật Bản mang diện mạo như hôm nay là kết quả của sự tiếp thu tinh hoa văn học phương Tây và yếu tố nội sinh của văn học Nhật Bản; sự kết hợp của tính khác biệt và thống nhất, tính kế thừa và biến đổi.(3) Các nhà văn, đồng thời là những nhà trí thức lớn đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa văn học hiện đại.(4) Ngày nay, VHHĐ Nhật Bản đã và đang hòa vào dòng chảy của văn chương thế giới một cách mạnh mẽ với một lực lượng sáng tác trẻ đầy tài năng và tâm huyết trong việc đổi mới, quốc tế hóa văn học.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pptbai_2_khai_quat_vhhd_nhat_ban_016.ppt