Bài giảng Khái niệm và thuật ngữ dùng trong dịch tễ học

Bất kỳ một bệnh nào cũng có thời gian tiến triển nhất

định trên cơ thể động vật từ trạng thái khỏe mạnh, sau

đó khỏi hoặc để lại di chứng hoặc chết.

• Trong cùng một loại bệnh có thể khác nhau về mức độ,

nhưng nhìn chung mỗi loại bệnh đều có một quá trình

diễn biến tự nhiên theo một quy luật riêng trong một

thời gian nhất định. Quá trình đó được gọi là quá trình

tự nhiên của bệnh, nghĩa là quá trình diễn biến của

bệnh không có sự can thiệp điều trị.

• Cần phải xác định quá trình tự nhiên của bệnh mới có

những đề cập khác nhau trong việc phòng ngừa và

kiểm soát bệnh

pdf16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2149 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài giảng Khái niệm và thuật ngữ dùng trong dịch tễ học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17 Sơ đồ chu trình nghiên cứu dịch tễ Hình thành giả thuyết Nghiên cứu mô tả Nghiên cứu phân tích Kiểm định giả thuyết Nghiên cứu can thiệp Nghiên cứu thực nghiệm Đánh giá Xây dựng mô hình dịch tễ CHƯƠNG 2 KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH • Bất kỳ một bệnh nào cũng có thời gian tiến triển nhất định trên cơ thể động vật từ trạng thái khỏe mạnh, sau đó khỏi hoặc để lại di chứng hoặc chết. • Trong cùng một loại bệnh có thể khác nhau về mức độ, nhưng nhìn chung mỗi loại bệnh đều có một quá trình diễn biến tự nhiên theo một quy luật riêng trong một thời gian nhất định. Quá trình đó được gọi là quá trình tự nhiên của bệnh, nghĩa là quá trình diễn biến của bệnh không có sự can thiệp điều trị. • Cần phải xác định quá trình tự nhiên của bệnh mới có những đề cập khác nhau trong việc phòng ngừa và kiểm soát bệnh. 18 1. Giai đoạn cảm nhiễm • Định nghĩa: là giai đoạn bệnh chưa phát triển nhưng cơ thể đã bắt đầu có phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ, có thể làm cho cơ thể sẽ xuất hiện bệnh tương ứng. • Các yếu tố nguy cơ là những yếu tố lý, hoá, sinh học, xã hội học… mà tác động của chúng làm tăng khả năng có thể phát triển một bệnh nhất định. • Trong giai đoạn này có những yếu tố không thay đổi: tuổi, tính biệt, loài, giống... và những yếu tố có thể thay đổi: vệ sinh, khí độc, sức khỏe, thức ăn, nước uống, các bệnh khác... Chính những yếu tố này có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ phát bệnh. • Như vậy, nếu xác định được các yếu tố nguy cơ thì sẽ có thể làm giảm hoặc không phát bệnh. Tuy nhiên không phải tất cả mọi cá thể có phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ đều phát bệnh, cũng không đảm bảo rằng tất cả mọi cơ thể không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ đều sẽ không phát bệnh. • Do mỗi bệnh đều có những lưới nguy cơ riêng không thể phát hiện được hết trong các nghiên cứu của mình và không có dấu hiệu nào để phát hiện một cơ thể động vật đang ở giai đoạn này. • Nhưng dù sao ở giai đoạn cảm nhiễm này, việc làm giảm nhẹ, giảm hoàn toàn phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ chắc chắn sẽ làm giảm được khả năng phát triển bệnh hơn là ở các giai đoạn muộn sau đó. • Nên để hạn chế khả năng phát bệnh cần: chăm sóc tốt, làm giảm hoàn toàn phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ, làm giảm các yếu tố nguy cơ. 19 2. Giai đoạn tiền lâm sàng • Cơ thể chưa có triệu chứng của bệnh nhưng bắt đầu có những thay đổi bệnh lý do tác động qua lại giữa cơ thể và các yếu tố nguy cơ tuy nhiên những thay đổi này ở dưới ngưỡng bệnh lý. Thí dụ: Trong một số bệnh truyền nhiễm, trước khi con vật có những biểu hiện lâm sàng thì người ta đã thấy có sự thay đổi về lượng hồng cầu trong máu, tuy nhiên sự thay đổi này không ảnh hưởng đến chức năng sinh lý bình thường của cơ thể. 3. Giai đoạn lâm sàng • Cơ thể đã có những thay đổi về chức năng các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của bệnh đã thể hiện ra bên ngoài. Do vậy có thể chẩn đoán bệnh qua những biểu hiện lâm sàng. • Thực ra cho đến nay, người ta vẫn chưa hiểu biết đầy đủ về quá trình tự nhiên đối với nhiều bệnh, cũng như chưa đủ về việc tại sao có những cá thể phơi nhiễm với một số yếu tố nguy cơ lại không có tiến triển lâm sàng của bệnh. 4. Giai đoạn sau lâm sàng • Sau giai đoạn lâm sàng nhiều bệnh tiến tới khỏi hoàn toàn do tự khỏi hoặc do điều trị, sau một giai đoạn phục hồi ngắn có hoặc không có những biến chứng cấp tính. • Nhưng đối với một số bệnh dưới những điều kiện nhất định, sau giai đoạn lâm sàng có thể để lại di chứng nhất thời (Newcastle, Tụ huyết trùng, Lao…) hoặc vĩnh viễn (Brucellosis, Đậu mùa...). 20 II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH PHÁT SINH PHÁT TRIỂN 1. Quan niệm về nguyên nhân đa yếu tố • Bệnh trạng phát sinh ra trong một hệ sinh thái nhất định, nên một đề cập sinh thái học là rất cần thiết trong dịch tễ học để giải thích sự nảy sinh một bệnh trạng. • Trong quan niệm và phương pháp dịch tễ học hiện đại người ta không nhấn mạnh về một yếu tố nào trong các điều kiện để bệnh phát triển. • “Bất kỳ một bệnh nào đó nảy sinh không chỉ liên quan đến một yếu tố đơn thuần mà liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau”. • Cho nên, trong quá trình phân tích dịch tễ học của bất kỳ bệnh nào phải tiến hành tìm hiểu nguyên nhân, đó phải bao gồm một chuỗi những yếu tố tác động phối hợp qua lại lẫn nhau. • Như vậy, sự phát sinh và phát triển của một bệnh nào đó liên quan đến nhiều yếu tố căn nguyên khác nhau và sự tác động qua lại của các yếu tố đó, gọi đó là nguyên nhân đa yếu tố. • Do đó: “Một nguyên nhân đầy đủ” có thể được xem như một tập hợp những hiện tượng, những điều kiện, những đặc tính tối thiểu không thể tránh khỏi để gây nên bệnh. 2. Những yếu tố cần thiết và cơ bản để bệnh phát sinh • Yếu tố gây bệnh hay tác nhân gây bệnh: gồm các yếu tố sinh học, lý học, hóa học... Là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để gây nên bệnh vì nó còn cần phải có các điều kiện hỗ trợ của yếu tố bên trong là vật chủ và yếu tố bên ngoài là môi trường ngoại cảnh thì bệnh mới phát sinh. Nhưng là một yếu tố bắt buộc phải có, là điều kiện cần thiết để bệnh phát sinh, phát triển. 21 • Yếu tố bên trong (vật chủ): Là cơ thể động vật với những đặc trưng của chúng như loài, giống, tuổi, giới tính, đặc tính di truyền, trạng thái sinh lý, trạng thái bệnh lý... Tình trạng của vật chủ ở bất kỳ lúc nào cũg là kết quả của tác động qua lại của các yếu tố nội sinh di truyền với ngoại cảnh trong suốt cuộc đời mà ngày nay người ta mới biết rõ một số điểm, còn nhiều điểm khác chưa được biết rõ ràng đầy đủ. Tuy nhiên, qua những hiểu biết ít ỏi đó, cũng cho phép chúng ta ít nhất là xác định ra những cá thể có xác suất lớn trong khả năng phát triển một số bệnh và hướng những cố gắng dự phòng vào đó. • Yếu tố bên ngoài (môi trường ngoại cảnh): Các yếu tố bên ngoài hay các yếu tố của môi trường có rất nhiều và đều có thể ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển bệnh thông qua các yếu tố bên trong của cơ thể). Yếu tố tự nhiên: khí hậu, thời tiết, địa lý, địa hình, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, độ ẩm... Các yếu tố do con người tạo ra: chuồng trại, vệ sinh, chăm sóc, dụng cụ nuôi dưỡng... 3. Các dạng liên kết của các yếu tố (nhân tố) • Mục tiêu của nghiên cứu các dạng liên kết này nhằm xác định tác nhân liên quan tới sự phát sinh bệnh. Sau khi tác nhân đã được xác định ta có thể đánh giá tác nhân đó gây bệnh như thế nào? Nếu thấy có sự phối hợp nguyên nhân giữa tác nhân và bệnh đang tồn tại, thì tác nhân đó được gọi là yếu tố quyết định. • Như vậy, sự liên kết giữa các yếu tố có thể được hiểu nếu mức độ phối hợp của các tác nhân càng cao thì dịch bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong quần thể. Ngược lại nếu chúng ta loại trừ chính xác sự phối hợp của các tác nhân gây bệnh đó thì dịch bệnh sẽ giảm hoặc không xảy ra. 22 4. Nguyên nhân tối thiểu • Dịch tễ học quan niệm bất cứ một bệnh nào cũng không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên, vô cớ mà phải có những nguyên nhân nhất định của chúng, những nguyên nhân này có thể xác định được. • Một thuật ngữ được đề cầp đến đó là “nguyên nhân tối thiểu vừa đủ” khái niệm này đã có từ lâu, thí dụ như: LD50, ID50, CPE50, TCID50, EID50... Nguyên nhân tối thiểu vừa đủ vừa mang ý nghĩa của liều đáp ứng, vừa mang ý nghĩa của thời gian đáp ứng, nghĩa là mỗi liều đáp ứng tối thiểu đều ứng với một thời gian đáp ứng tối thiểu nhất định và ngược lại. Hay nói cách khác sự xuất hiện của một bệnh nào đó là do lượng nguyên nhân quá ngưỡng tác động trong một thời gian nhất định, liều càng cao thì thời gian tác động càng ngắn và ngược lại. IV. CÁC MÔ HÌNH CỦA DỊCH BỆNH 1. Mô hình sinh thái học • Mô hình sinh thái học chính là sự tương tác của tất cả các yếu tố với nhau cùng tác động lên cơ thể vật chủ. • Mô hình này được thiết lập nhằm tìm ra cơ chế, hậu quả của tất cả những tác động đó đối với việc hình thành, xuất hiện bệnh như thế nào? • Tìm ra được nguyên nhân nào là chủ yếu ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe của quần thể đàn gia súc hay của một cá thể ở một thời điểm nhất định để điều chỉnh kịp thời và giữ thăng bằng cho cơ thể. 23 • Có những yếu tố trong hệ sinh thái thay đổi, nhưng không gây ảnh hưởng tới sức khỏe quần thể đàn gia súc, thì không cần phải điều chỉnh, vì có các yếu tố khác trong hệ sinh thái đó có khả năng tự bù đắp tự điều chỉnh lại những ảnh hưởng đó. • Ngược lại có những thay đổi dù nhỏ nhưng lại ảnh hưởng tới sức khỏe của quần thể đàn gia súc, dẫn tới bệnh tật thì phải điều chỉnh ngay. Dịch bệnh Vật chủ Môi trường Tác nhân Hình 1: Sơ đồ mô hình tam giác G 1 a b c Hình 2: Sơ đồ mô hình bánh xe • Mô hình tam giác Gồm 3 thành phần: Tác nhân- Vật chủ - Môi trường Mô hình này cho rằng trong bất cứ dịch bệnh nào cũng phải phân tích đầy đủ 3 thành phần trên, nếu có bất kỳ một thành phần nào thay đổi sẽ kéo theo sự gia tăng hoặc giảm thấp tần số của bệnh. Tuy nhiên với quan niệm về các yếu tố bên trong và bên ngoài, ứng với tính cảm thụ của cơ thể và khả năng phơi nhiễm đối với các yếu tố của môi trường bên ngoài thì thành phần “tác nhân” chỉ là một trong các yếu tố của môi trường bên ngoài. 24 Khi nghiên cứu dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm thì việc tách riêng các VSV gây bệnh ra khỏi các yếu tố của môi trường thành loại tác nhân là chính xác, nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân chính gây ra bệnh. Nhưng với quan niệm và phương pháp nghiên cứu dịch tễ học hiện nay áp dụng cho mọi loại bệnh, người ta sẽ không nhấn mạnh vào yếu tố đặc thù nào, ngay cả đối với các bệnh đã biết được “tác nhân” gây bệnh. Mô hình sinh thái học được hình thành, không nhấn mạnh đến “tác nhân” mà quan tâm đến các tác động qua lại giữa vật chủ và môi trường, nghĩa là quan tâm đến tác động giữa yếu tố bên trong và bên ngoài. • Mô hình bánh xe Mô hình bánh xe là mô hình được đề cập để phát hiện những mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường, đó là các vòng tròn lớn, nhỏ khác nhau được lồng vào nhau. Ở giữa là một vòng tròn biểu thị cho cơ thể vật (1) chủ với hệ thống thông tin di truyền của nó (G). Xung quanh là môi trường, chia thành 3 mảnh, biểu thị cho các loại môi trường: môi trường sinh học (a), môi trường lý học (b) và môi trường xã hội (c). Độ lớn của từng thành phần của “bánh xe” phụ thuộc vào từng bệnh cụ thể: bệnh do di truyền, bệnh truyền nhiễm, bệnh không truyền nhiễm Mô hình này xác định được nhiều yếu tố căn nguyên của bệnh mà không cần nhấn mạnh đến tác nhân. VD: trong bệnh Dại không cần nhấn mạnh đến virus Dại, mà phải nhấn mạnh đến gia súc mắc bệnh là ổ chứa virus đó và môi trường. Phân chia ra các yếu tố của vật chủ và các yếu tố môi trường rất có lợi trong phân tích dịch tễ học. 25 2. Mô hình Reed Frost • Mô hình phát triển của dịch bệnh có thể được sử dụng để đánh giá, để dự đoán và đề ra những chiến lược không chế, ngăn chặn sự phát triển của các dịch bệnh khác nhau. • Mô hình Reed Frost là một trong những mô hình đơn giản nhất, nhưng lại rất hữu ích trong dịch tễ học, mô hình Reed Frost nhận xét: Sự nhiễm bệnh trực tiếp từ cá thể bị nhiễm sang cá thể mẫn cảm bằng một loạt các phơi nhiễm nhất định được gọi là “phơi nhiễm đầy đủ”. Bất cứ cá thể nào chưa được miễn dịch hoặc chưa mẫn cảm trong nhóm, đàn, quần thể phơi nhiễm với một cá thể mắc bệnh bệnh truyền nhiễm trong một giai đoạn nhất định sẽ phát triển thành bệnh và có khả năng lây lan cho các cá thể khác trong nhóm, đàn, quần thể và trong giai đoạn tiếp theo, sau đó sẽ có khả năng hoàn toàn miễn dịch. Mỗi một cá thể có một xác suất cố định để “phơi nhiễm đầy đủ” và hoàn toàn ngẫu nhiên với cá thể đặc biệt khác trong nhóm, đàn, quần thể trong một khoảng thời gian nhất định, xác suất này cũng tương ứng cho mỗi thành viên trong nhóm, đàn, quần thể khác. Những cá thể đã bị nhiễm “được coi như tách khỏi” những cá thể trong nhóm, đàn, quần thể. Khoảng cách thời gian cho giai đoạn nhiễm bệnh bằng bình quân độ dài của khoảng cách tiền phát. 26 • Mô hình Reed Frost mô tả dịch bệnh bằng phương trình sau: C (t+1) = St (1- Qct) • Trong đó: t là giai đoạn thời gian xác định bởi thời kỳ nung bệnh của tác nhân (được đo bằng đơn vị giờ, ngày, tháng). C(t+1) là số trường hợp bệnh bị nhiễm trong thời gian t St là số động vật dễ phơi nhiễm trong thời gian t Q là khả năng của một cá thể không được phơi nhiễm đầy đủ trong một giai đoạn thời gian. Giá trị của Q được xác định bằng 1 - P, mà P là khả năng của một cá thể được phơi nhiễm đầy đủ, nên: Q = 1 - P Khả năng phơi nhiễm đầy đủ P có thể được xác định bằng K/(N – 1) K là số lượng phơi nhiễm có hiệu quả của một cá thể trong một giai đoạn xác định, còn N là quy mô của quần thể. • Mô hình Reed Frost có thể xác định được số động vật mới bị nhiễm trong giai đoạn về sau nếu biết được số lượng hiện tại những động vật dễ nhiễm, số lượng các ca bệnh hiện tại và khả năng phơi nhiễm có hiệu quả. • Mô hình Reed Frost nghiên cứu dịch tễ học hiện hành, chứng minh rằng dịch bệnh sẽ tàn lụi hay kết thúc khi sự phơi nhiễm đầy đủ (P) ở mức độ thấp và khi số lượng động vật dễ nhiễm (S) giảm: Khi mà P x S > 1 thì dịch bệnh có thể xảy ra Ngược lại khi P x S < 1 thì dịch bệnh sẽ không xảy ra hoặc kết thúc Còn nếu như dịch bệnh không mất hết, có thể là do có sự thay đổi về độc lực của VSV gây bệnh. 27 • Mô hình Reed Frost cho biết nếu số động vật dễ nhiễm trong quần thể giảm do tăng tỷ lệ động vật được miễn dịch thì mức độ của dịch bệnh và thời gian của dịch bệnh có thể sẽ giảm nhiều. Điều này nêu lên khái niệm về “miễn dịch đàn”. “Miễn dịch đàn” được coi như sự bảo vệ của quần thể khỏi nhiễm dịch bệnh bằng miễn dịch của các cá thể trong quần thể. Nếu như tỷ lệ động vật được miễn dịch trong quần thể giảm dưới mức quy định, thì dịch bệnh sẽ tăng cao đó là điều tất yếu. • Do vậy tiêm vacxin phòng bệnh cho đàn gia súc là phương pháp tạo và duy trì những động vật có miễn dịch trong quần thể, bảo vệ từng cá thể gia súc khỏi mắc phải dịch bệnh, đem lại lợi ích cho cộng đồng, đem lại lợi ích cho cá nhân. • Đây chính là những lý do tại sao chúng ta phải tiêm các loại vacxin phòng bệnh cho đàn gia súc. V. MỘT SỐ THUẬT NGỮ THƯỜNG DÙNG 1. Nguy cơ, yếu tố nguy cơ • Trong các bệnh nhiễm khuẩn, nguyên nhân gây bệnh là do các VSV gây nên. Tuy nhiên ngày nay khái niệm này được mở rộng nó bao gồm tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài có liên quan, ảnh hưởng đến việc hình thành, diễn biến của bệnh trong một quần thể. • Chúng đều được nhìn nhận là những yếu tố nguy cơ của bệnh nhưng ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào kết quả xác định đó là yếu tố nguy cơ nghi ngờ hay yếu tố nguy cơ căn nguyên. 28 • Nguy cơ: Là khả năng mắc một bệnh nào đó Nguy cơ được định nghĩa là xác suất xuất hiện một biến cố không có lợi đối với sức khỏe của mỗi cá thể hoặc của một quần thể. Có thể nhận thấy khái niệm nguy cơ là một khái niệm xác suất trìu tượng có thể xảy ra và cũng có thể không xảy ra. • Yếu tố nguy cơ: Bất kỳ một yếu tố nào, dù có bản chất nào (vật lý, hóa học, sinh học...) góp phần làm cho một cơ thể đang khỏe mạnh mà mắc bệnh thì yếu tố đó được gọi là yếu tố nguy cơ. Như vậy, khác hẳn với nguy cơ, yếu tố nguy cơ là một khái niệm vật chất cụ thể. Nên khi nói đến nguy cơ chúng ta bao giờ cũng phải gắn liền với yếu tố nguy cơ nếu không sẽ không có ý nghĩa gì về mặt dịch tễ học và cũng sẽ không mang lại một lợi ích gì khi muốn can thiệp để bảo vệ cá thể hoặc quần thể đó. Nếu không khắc phục được yếu tố nguy cơ thì hậu quả tất nhiên là dịch bệnh sẽ xảy ra. 2. Tương tác quan hệ nhân quả • Một bệnh xảy ra là hậu quả do tác động của nhiều yếu tố nguyên nhân khác nhau, trong dịch tễ học, người ta gọi các hiện tượng đó là “lưới nguyên nhân”. • Bởi vì một bệnh có thể được hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhau. • Ngược lại, một yếu tố nguyên nhân cũng có thể gây tác động hình thành nhiều hậu quả khác nhau, người ta gọi đó là “lưới hậu quả”. 29 • Vì vậy, trong các giả thuyết nhân quả không chỉ quan sát những “diễn biến” của bệnh mà phải nắm được “chất tác động” lên “diễn biến” đó cũng như biểu hiện của các “diễn biến” đó. • Ngoài ra trong khái niệm lưới nguyên nhân và lưới hậu quả, còn cần phải chú ý tới những tác động hiệp đồng của các yếu tố nguy hại đối với cơ thể, cũng như sự cân bằng giữa các phản ứng của cơ thể với môi trường xung quanh. • Sự hiệp đồng này có khi chỉ là một tác động phối hợp đơn thuần (bằng tổng các tác động) có khi lại là một sự phối hợp tăng hoặc giảm (lớn hơn hoặc nhỏ hơn tổng các tác động). • Trong mối tương tác quan hệ nhân quả, một vấn đề không thể bỏ qua được đó là các quan hệ về liều đáp ứng và thời gian đáp ứng. 3. Quần thể • Quần thể được hiểu một cách khái quát là tập hợp nhiều cá thể trong một phạm trù nhất định, là tổng số cá thể trong một phạm trù xảy ra bệnh hoặc các cá thể có phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ của bệnh cần nghiên cứu. • Có thể chia ra các loại quần thể sau: Quần thể toàn bộ: là một tập hợp các cá thể có chung những đặc điểm, tính chất nhất định trong một thời gian và không gian nhất định. 30 Quần thể định danh: là một tập hợp những cá thể có chung những tính chất nhất định, hình thành một xác suất mắc tương tự đối với một bệnh nào đó trước những yếu tố nguy cơ nhất định. Tức là các cá thể đó phải đồng nhất với nhau về nhiều tính chất và đồng nhất tối đa về nguy cơ mắc bệnh. Trong quần thể định danh có thể chia ra:  Quần thể dễ nhiễm còn gọi là quần thể mục tiêu  Quần thể có nguy cơ  Quần thể bị đe dọa • Chúng ta có thể chọn bất kỳ quần thể nào tùy theo mục đích nghiên cứu, nhưng phải xác định được số cá thể có trong quần thể đó hoặc số cá thể có trong thời điểm nghiên cứu (nghiên cứu ngắn) hoặc phải xác định được số cá thể trung bình có trong thời gian nghiên cứu hoặc giai đoạn nghiên cứu (nghiên cứu dài). Vì các cá thể này sẽ được dùng làm mẫu số cho tính toán các tỷ lệ sau này. • Đối với một quần thể lớn (nghiên cứu trong phạm vi rộng và thời gian dài) thì không nên tính tổng số cá thể, vì sẽ không chính xác. Trong trường hợp này nên lấy số thống kê tổng đàn gia súc có trong khu vực ở giữa thời kỳ nghiên cứu. • Đối với các quần thể nhỏ, mà quan sát lại được tiến hành trong phạm vi hẹp và thời gian ngắn thì tử số của các tỷ lệ cần phải là số chính xác của các trường hợp gia súc mắc bệnh, gia súc chết còn mẫu số là tổng đàn gia súc có trong thời gian ngắn đó. 31 4. Thời điểm phát bệnh • Xác định thời điểm phát bệnh là rất cần thiết, trong việc thiết lập các tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và đặc biệt là tỷ lệ mới mắc. • Có bệnh có thể xác định được thời điểm phát bệnh một cách dễ dàng và chính xác. Có bệnh thì khó xác định hơn hoặc nhiều khi không xác định được chính xác. Trong trường hợp này ta có thể coi thời điểm phát hiện những triệu chứng đầu tiên sớm nhất hoặc là lúc có chẩn đoán chính xác là thời điểm phát bệnh. 5. Thời kỳ quan sát • Khi xác định các tỷ lệ luôn luôn phải bao phủ một khoảng thời gian nhất định, thường là: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm... hoặc có thể bao gồm một khoảng thời gian dài ngắn bất kỳ nào. Nói chung khoảng thời gian đó phải đủ dài để có thể đảm bảo được sự ổn định của tử số khi tính các tỷ lệ. • Thời kỳ quan sát là khoảng thời gian được tính từ ngày phát bệnh đến ngày có con vật mắc bệnh cuối cùng trong một vụ dịch. VI. THUẬT NGỮ DÙNG TRONG BỆNH TRUYỀN NHIỄM 1. Thời kỳ nung bệnh (incubation period) • Là khoảng cách thời gian giữa khả năng bị lây từ một tác nhân truyền nhiễm và sự xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của một bệnh nghi vấn. 2. Thời kỳ tiền phát (prepatent period) • Là khoảng thời gian giữa sự nhiễm tới khi bài xuất mầm bệnh truyền nhiễm. 32 3. Động vật mang trùng (carier) • Là động vật bị nhiễm chứa một tác nhân gây nhiễm đặc biệt mà không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt nhưng là nguồn dịch cho các động vật khác. • Trạng thái mang trùng có thể là không rõ rệt trong suốt quá trình bị nhiễm hay có thể xảy ra trong thời kỳ nung bệnh hoặc trong thời kỳ hồi phục. 4. Động vật nhiễm bệnh • Là động vật chưa có những triệu chứng điển hình của bệnh đó, nhưng có những biểu hiện tương tự như động vật mắc bệnh. 5. Động vật nghi nhiễm bệnh • Là động vật dễ nhiễm đã phơi nhiễm hoặc ở gần động vật mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh. 6. Nguồn dịch (reservoir) • Là vi sinh vật sống ký sinh trên cơ thể động vật hay trong môi trường ngoại cảnh (đất, nước, không khí…) mà ở đó chúng có khả năng tồn tại, duy trì sự sống, nhân lên, chúng có thể gây bệnh làm lây lan bệnh. 7. Sự nhiễm (infection) • Là tác nhân truyền nhiễm có khả năng xâm nhập, phát triển và nhân lên trong cơ thể động vật sống. 8. Sự ô nhiễm (contamination) • Là sự có mặt của các tác nhân gây nhiễm trong môi trường với một số lượng vượt quá chỉ tiêu cho phép. 9. Tính cường độc (virulence) • Là khả năng của một tác nhân có thể gây bệnh nặng cho động vật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdictehoc_thuy20070017_003.pdf
Tài liệu liên quan