Bài giảng Dịch tễ học phần 6+7

Là dựa trên nền tảng của hai nhóm cơ bản là thí

nghiệm và đối chứng, là sự so sánh giữa hai nhóm

gia súc mắc bệnh và khoẻ mạnh, là sự đánh giá

giữa một phương pháp điều trị mới với phương

pháp điều trị hiện hành, là sự so sánh giữa nhóm

gia súc được phòng bệnh và không phòng bệnh

• Về mặt lâm sàng là sự so sánh giữa gia súc thí

nghiệm với gia súc khoẻ mạnh hoặc với các tài liệu

sách vởkinh điển.

pdf16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài giảng Dịch tễ học phần 6+7, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
81 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CAN THIỆP 1. Nguyên tắc • Là dựa trên nền tảng của hai nhóm cơ bản là thí nghiệm và đối chứng, là sự so sánh giữa hai nhóm gia súc mắc bệnh và khoẻ mạnh, là sự đánh giá giữa một phương pháp điều trị mới với phương pháp điều trị hiện hành, là sự so sánh giữa nhóm gia súc được phòng bệnh và không phòng bệnh • Về mặt lâm sàng là sự so sánh giữa gia súc thí nghiệm với gia súc khoẻ mạnh hoặc với các tài liệu sách vở kinh điển. 2. Mục tiêu • Mục tiêu của nghiên cứu can thiệp không phải chỉ đơn thuần trình bày, giải thích giả thuyết mà phải có một sự so sánh đánh giá giữa hai nhóm nền tảng từ đó chứng minh tính đúng đắn, rõ ràng nhất về mối quan hệ nhân quả. 3. Can thiệp trong điều kiện không kiểm soát • Là loại nghiên cứu được tiến hành trên diện rộng, đối tượng nghiên cứu là tất cả các động vật nuôi trong một địa phương hay trong một vùng đều được quan tâm, không kể là động vật có bệnh hay không có bệnh. • Ta sẽ tiến hành đưa vào đối tượng này các yếu tố về trị liệu, thuốc, vacxin… rồi theo dõi diễn biến hay hậu quả của những tác động này. 82 4. Can thiệp trong điều kiện có kiểm soát • Là loại nghiên cứu được tiến hành trên diện rộng, nhưng có giới hạn chỉ trên một phần của đàn động vật đã được chọn lựa và phần khác dùng làm đối chứng, được thực hiện trong một khu thí nghiệm hoặc được khoanh vùng thực nghiệm khi ta đưa vào các đối tượng này các biện pháp nhằm so sánh hiệu quả của 2 hay nhiều phương án nhằm bảo vệ sức khoẻ cho đàn động vật. III. CÁC LOẠI NGHIÊN CỨU CAN THIỆP 1. Nghiên cứu can thiệp trong phòng thí nghiệm • Là phương pháp thường quy, kinh điển hiện đang được dùng trong các phòng thí nghiệm. • Bao gồm các bước: nuôi cấy, phân lập, chẩn đoán, xét nghiệm, định lượng, gây bệnh, kiểm tra sức đề kháng, hiệu quả của các thuốc, vacxin… 2. Thử nghiệm lâm sàng • Thử nghiệm lâm sàng là một thử nghiệm có kế hoạch được thực hiện trên thực địa, được bố trí một cách chặt chẽ, khách quan trên hai nhóm nền tảng để so sánh, đánh giá kết quả quan sát được. • Thử nghiệm lâm sàng hay thử nghiệm điều trị được áp dụng ở những cá thể bị một bệnh nào đó để xác định khả năng giảm bớt triệu chứng, giảm nguy cơ chết vì bệnh đó của một loại thuốc hay một phương pháp điều trị. • VD: Đánh giá hiệu lực của vacxin, thuốc điều trị mới, đặc hiệu đối với bệnh nào đó. 83 2.1. Thử nghiệm phương pháp điều trị • Nhiều thử nghiệm lâm sàng nghiên cứu hiệu quả của các phương pháp điều trị. • VD: phương pháp phẫu thuật, cách quản lý chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, hộ lý… • Thử nghiệm gây tê bằng phương pháp châm cứu hoặc gây tê bằng phương pháp dùng thuốc tê khi phẫu thuật. 2.2. Thử nghiệm thuốc điều trị • Thử nghiệm thuốc điều trị, được chia làm 4 phần: Giai đoạn 1: Dược lý lâm sàng và độc tính  Giai đoạn này nghiên cứu tính an toàn chứa không phải tính hiệu quả của thuốc, rồi sau đó xác định liều sử dụng thích hợp.  Trước tiên được thử trên động vật thí nghiệm, sau đó mới tiến hành thử nghiệm với một số nhỏ động vật khoẻ mạnh. Giai đoạn 2: Điều tra ban đầu ảnh hưởng lâm sàng của thuốc điều trị  Giai đoạn này điều tra trên một phạm vi nhỏ về hiệu quả và sự an toàn của thuốc do vậy cần theo dõi sát sao các động vật vật bệnh được điều trị thử nghiệm.  Tuy nhiên cần tính toán cỡ mẫu cho phù hợp. 84 Giai đoạn 3: Đánh giá tác dụng của thuốc trên một phạm vi lớn  Sau khi xác định tính hiệu quả của thuốc, cần phải so sánh với các phương pháp hiện đang được áp dụng.  Giai đoạn này thực chất đồng nghĩa với khái niệm “thử nghiệm lâm sàng”, là một phương pháp khoa học và chính xác nghiên cứu tác dụng lâm sàng của một thuốc điều trị mới. Giai đoạn 4: Giám sát thuốc trên thị trường  Giai đoạn này nhằm giám sát các ảnh hưởng phụ của thuốc, nghiên cứu bổ sung lâu dài trên phạm vi lớn về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, sự quan tâm chú ý của những người hoạt động về lĩnh vực thú y. 2.3. Thử nghiệm phòng bệnh • Thử nghiệm các biện pháp phòng bệnh có liên quan đến việc đánh giá tác dụng của một tác nhân hay một phương pháp làm giảm nguy cơ phát triển bệnh ở những quần thể động vật có nguy cơ mắc bệnh. Tiêm phòng vacxin để phòng bệnh cho gia súc. Có thể dùng vacxin sống nhược độc, chết, đa giá, tái tổ hợp… 85 Đề ra các biện pháp phòng bệnh hữu hiệu khác: vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại, khu vực chăn nuôi… • Trong khi thử nghiệm lâm sàng thường được áp dụng ở các cá thể, thì thử nghiệm phòng bệnh tuy cũng có thể được áp dụng ở các cá thể nhưng thường là trên quần thể toàn bộ, mang tính chất rộng rãi hơn. Đề ra các biện pháp phòng bệnh hữu hiệu khác: vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại, khu vực chăn nuôi… • Trong khi thử nghiệm lâm sàng thường được áp dụng ở các cá thể, thì thử nghiệm phòng bệnh tuy cũng có thể được áp dụng ở các cá thể nhưng thường là trên quần thể toàn bộ, mang tính chất rộng rãi hơn. IV. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG NGHIÊN CỨU CAN THIỆP • Trong khi người nghiên cứu hoàn toàn thụ động trong nghiên cứu phân tích quan sát thì trong nghiên cứu can thiệp họ chủ động chỉ định đối tượng nghiên cứu nhận một loại thuốc hay một phương pháp điều trị, phòng bệnh. • Do đó, họ phải cân nhắc các khía cạnh đạo đức, khả năng thực hiện và giá thành của nghiên cứu. 86 1. Đạo đức • Sự cân nhắc về đạo đức đã loại bỏ nhiều nghiên cứu đánh giá các thuốc, vacxin hay phương pháp điều trị trong nghiên cứu can thiệp. • Người nghiên cứu không được phép chỉ định nghiên cứu những chất được biết là độc hại. Tương tự, những liệu pháp điều trị được biết là có hiệu quả phải được áp dụng cho tất cả các cá thể bị bệnh. 3. Giá thành • Trước đây, việc thực hiện các nghiên cứu can thiệp thường tốn kém hơn so với các nghiên cứu quan sát. Do từng đối tượng nghiên được thử nghiệm thuốc, vacxin, phương pháp điều trị và đánh giá, nên giá thành thường cao. • Gần đây, người ta bắt đầu tiến hành các thử nghiệm lớn với quy trình hợp lý được thiết kế cận thận để giảm giá thành và thời gian nghiên cứu. V. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ • Phương pháp phân tích kết quả trong nghiên cứu can thiệp tương tự như đối với nghiên cứu thuần tập. Trong đó người ta tiến hành so sánh tỷ lệ phát triển hậu quả mà ta nghiên cứu giữa nhóm thí nghiệm và nhóm so sánh. • Cũng giống như đối với bất kỳ một nghiên cứu dịch tễ học phân tích nào, vai trò của sự may rủi, sai số có hệ thống và các yếu tố gây nhiễu phải được đánh giá khi phân tích kết quả nghiên cứu. 87 • Cũng như các nghiên cứu khác, nếu cỡ mẫu đủ lớn sẽ khắc phục được vấn đề may rủi. • Lựa chọn ngẫu nhiên sẽ hạ thấp khả năng sai số có hệ thống trong việc chỉ định các nhóm thử nghiệm. • Lựa chọn ngẫu nhiên cũng góp phần làm phân bố đều như nhau các yếu tố gây nhiễu đã biết hay chưa biết rõ. • Sai lệch quan sát hậu quả mà ta nghiên cứu có thể được hạn chế bằng cách áp dụng phương pháp làm mù một lần hay hai lần. • Do vậy, bước đầu tiên quan trọng trong khi phân tích một thử nghiệm lâm sàng là phải đạt được sự giống nhau về các đặc trưng tương ứng ở nhóm thí nghiệm và nhóm so sánh. Sự so sánh phải là việc đầu tiên trong khi báo cáo kết quả nghiên cứu. • Một khi những đối tượng tham gia nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên vào nhóm thử nghiệm thì diễn biến sức khoẻ của chúng phải được đánh giá và phân tích cùng với những đối tượng ở nhóm so sánh. Điều này nhấn mạnh đến sự cần thiết phải duy trì sự tuân thủ cao chế độ nghiên cứu ở tất cả các đối tượng tham gia. • Về mặt thực hành, không nên thực hiện những thử nghiệm mà chế độ nghiên cứu quá phức tạp và không thuận tiện cho dù thử nghiệm đó có hiệu quả đến đâu đi chăng nữa. • Trong khi phân tích số liệu từ các thử nghiệm, bên cạnh sự tuân thủ chế độ nghiên cứu, người ta còn so sánh ngẫu nhiên những nhóm nhỏ dựa trên những đặc trưng khác nhau. 88 VI. KẾT LUẬN • Nghiên cứu can thiệp là một loại nghiên cứu dịch tễ học khó thiết kế và khó thực hiện so với các nghiên cứu dịch tễ học khác, do các vấn đề về đạo đức, khả năng thực hiện và giá thành. • Tuy nhiên, nếu các thử nghiệm này có cỡ mẫu đủ lớn, chế độ thử nghiệm được chỉ định ngẫu nhiên, được thiết kế, thực hiện và phân tích cẩn thận sẽ cung cấp những bằng chứng dịch tễ học trực tiếp nhất và mạnh nhất chứng minh sự tồn tại của mối quan hệ nhân - quả. CHƯƠNG 7 DỊCH TỄ HỌC BỆNH TRUYỀN NHIỄM I. QUÁ TRÌNH NHIỄM TRÙNG 1. Hiện tượng nhiễm trùng • Nhiễm trùng là hiện tượng xảy ra khi mầm bệnh là vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể động vật trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh. Theo Metsnhicop: “Nhiễm trùng là một cuộc đấu tranh giữa hai sinh thể”. Theo Paplop: “Nhiễm trùng là một quá trình sinh vật học phức tạp bắt đầu bằng cuộc đấu tranh giữa mầm bệnh và cơ thể bị xâm nhiễm”. 89 • Như vậy nhiễm trùng là một trạng thái đặc biệt của cơ thể, là kết quả xảy ra khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, gặp những điều kiện thích hợp cho sự phát triển, sinh sôi nẩy nở và phát huy tác hại của nó. • Nhưng đồng thời cũng kích thích cơ thể phản ứng lại, bằng cách huy động mọi cơ năng bảo vệ để chống đỡ. • Hiện tượng đấu tranh giữa hai sinh thể này (cơ thể và mầm bệnh) diễn ra trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh nên nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác. • Ảnh hưởng của các loại yếu tố đó dẫn đến kết quả là xảy ra hiện tượng nhiễm trùng. • Đây là một khái niệm cơ bản quán triệt mọi mặt của công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm cho gia súc. 2. Điều kiện để mầm bệnh gây được nhiễm trùng 2.1.Tính gây bệnh • Một trong những tính chất cơ bản của mầm bệnh thể hiện qua tính gây bệnh của chúng. Đây là điều kiện đầu tiên, cơ bản nhất để mầm bệnh gây được nhiễm trùng. • Mầm bệnh thu được khả năng này qua quá trình tiến hoá thích nghi của nó trên cơ thể. Khả năng này gắn liền với đặc tính ký sinh của mầm bệnh và có tính chất chuyên biệt: một loại mầm bệnh chỉ gây được một bệnh nhất định. 90 • Mầm bệnh trong thiên nhiên có nhiều loại: Loại hoại sinh Loại tuỳ tiện (vừa sống ký sinh vừa hoại sinh) Loại ký sinh bắt buộc (chỉ sống và phát triển trong cơ thể và gây tác hại đối với cơ thể). • Nghiên cứu đời sống VSV người ta thấy nhiều loại vi khuẩn sống ở môi trường dần dần thích ứng trên cơ thể sinh vật, ban đầu là loại ký sinh không thường xuyên sau thành ký sinh bắt buộc và cơ thể trở thành môi trường sống thuận lợi duy nhất đối với chúng. • Sự thích nghi của mầm bệnh dần dần tạo cho chúng những kiểu trao đổi chất khác nhau, có hình thái và đặc điểm sinh lý đặc trưng cho từng loài, đặc tính này được truyền từ đời này qua đời khác. • Trong quá trình tiến hoá thích nghi với cơ thể động vật nhiều loại mầm bệnh ký sinh thường hướng về các mô bào nhất là Ricketsia và Virut. • Mầm bệnh cũng có xu hướng cư trú và sinh sản ở những tổ chức nhất định hoặc với mỗi loại động vật nhất định: virut LMLM, vi khuẩn Tỵ thư hoặc gây bệnh cho tất cả các loài như virut Dại, vi khuẩn Nhiệt thán… 2.2. Độc lực • Mầm bệnh tuy đã có tính gây bệnh nhưng muốn gây được nhiễm trùng cần phải có độc lực. • Độc lực biểu hiện mức độ cụ thể của tính gây bệnh. Nhưng khái niệm độc lực không chỉ nói về đặc tính của mầm bệnh, mà còn nói lên sự chống đỡ của cơ thể, vì một mầm bệnh có thể có độc lực đối với cá thể này, loài này nhưng lại không có độc lực đối với cá thể khác, loài khác. 91 • Một mầm bệnh có độc lực là do nó có khả năng xâm nhập và phát triển trong cơ thể, trong quá trình đó nó tiết ra những chất độc, những chất ngăn cản cơ năng bảo vệ của cơ thể hoặc phá huỷ tổ chức của cơ thể. • Độc lực của mầm bệnh không cố định mà rất dễ bị biến đổi do tác động của cơ thể và ngoại cảnh. Độc lực của mầm bệnh cũng có thể được làm tăng hoặc giảm hoặc mất hoàn toàn bằng phương pháp nhân tạo hoặc bị biến đổi trong tự nhiên. Người ta đã lợi dụng tính chất này trong việc phòng chống bệnh như tiêu độc, chế các loại vacxin… • Trong phòng thí nhiệm người ta có quy ước để tính độc lực của mầm bệnh, đó là liều gây chết ít nhất (DLM), tức là dùng số lượng mầm bệnh ít nhất nuôi trong những điều kiện nhất định về môi trường, nhiệt độ, thời gian có thể giết chết một động vật nhất định trong những điều kiện nhất định hoặc xác định liều gây chết 50% động vật thí nghiệm (LD50%). 2.3. Số lượng • Muốn gây được bệnh thì mầm bệnh phải có số lượng nhất định. Độc lực đi đôi với số lượng mầm bệnh nhiễm vào cơ thể, số lượng càng nhiều bệnh thể hiện càng nặng. • Tuy nhiên có loại mầm bệnh chỉ cần số lượng rất ít cũng đủ để gây bệnh (Virus Dịch tả lợn, vi khuẩn Pasteurela multocida) nhưng có loại phải cần số lượng nhiều mới gây được bệnh (Virus Loét da quăn tai, vi khuẩn Nhiệt thán, Brucella). • Để xác định tính chất này chính xác hơn người ta quy định các liều: LD50, EID50, CPE50, TCID50 92 2.4. Đường xâm nhập • Súc vật thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh chứa mầm bệnh, nên có nhiều điều kiện và nhiều cách để mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. • Những đường xâm nhập đó được xác lập qua quá trình tiến hoá lâu dài của chúng để thích nghi với đời sống ký sinh, tạo điều kiện thích hợp nhất để chúng gây bệnh và bảo tồn nòi giống. • Vì vậy, mỗi loại mầm bệnh đã chọn lọc một con đường thích hợp nhất để vào cơ thể. Những loại mầm bệnh khác nhau có những đường xâm nhập khác nhau. Tuy nhiên một loại mầm bệnh có thể có một hoặc nhiều đường xâm nhập, nhưng trong đó vẫn có một đường xâm nhập chính. • Đường xâm nhập có ý nghĩa quan trọng trong hiện tượng nhiễm trùng: Nếu đường xâm nhập thích hợp thì mầm bệnh dễ dàng gây bệnh và bệnh thể hiện điển hình. Nếu đường xâm nhập không thích hợp thì có thể không gây bệnh hoặc gây bệnh nhẹ và cho miễn dịch hoặc cần số lượng nhiều gấp nhiều lần mới gây được bệnh. Ngoài ra, cùng một đường xâm nhập nhưng ở những vị trí khác nhau trên cơ thể thì có thể gây nên những hiện tượng bệnh lý khác nhau. • Những đường xâm nhập chủ yếu là: đường tiêu hoá, đường hô hấp, đường qua da, niêm mạc, sinh dục tiết niệu và đường máu. 93 2.5. Kết luận • Khả năng xâm nhập vào cơ thể, sinh sôi nảy nở trong cơ thể, khả năng chịu đựng trong điều kiện ngoại cảnh hợp lại tạo thành khả năng xâm nhiễm của mầm bệnh. • Khả năng này làm cho mỗi bệnh truyền nhiễm có tính chất dịch tễ học riêng biệt. • Những điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm. 3. Phương thức tác động của mầm bệnh • Phương thức tác động của mầm bệnh đối với cơ thể động vật chủ yếu gồm hai phương thức chính: Thứ nhất là sinh sản cực nhanh chiếm đoạt vật chất của cơ thể ký chủ để phát triển. VD: như vi khuẩn gây bệnh Nhiệt thán (B. anthracis) Thứ hai tác động bằng những chất tiết ra như: độc tố, giáp mô, yếu tố lan truyền hay khuyếch tán, công kích tố, các loại men… VD: vi khuẩn gây bệnh Uốn ván (Clostridium tetani) 3.1. Độc tố • Độc tố của vi khuẩn có 2 loại: Ngoại độc tố: do vi khuẩn gây bệnh tiết ra môi trường xung quanh, các mô bào của cơ thể hút vào và gây nên triệu chứng ngộ độc.  Ngoại độc tố rất độc, tác động với một lượng rất ít, thường có đặc tính hướng thần kinh.  VD: độc tố của vi khuẩn Uốn ván lan truyền vào thần kinh trung ương gây kích thích trung tâm vận động làm bắp thịt bị co giật. 94 Nội độc tố: là sản phẩm của nhiều loại vi khuẩn (chủ yếu là vk Gram âm).  Nội độc tố gắn liền với tế bào vi khuẩn, khi vi khuẩn bị dung giải nội độc tố mới được giải phóng.  Khác với ngoại độc tố, nội độc tố gây các hiện tượng bệnh lý chung cho động vật như: ủ rũ, sốt, bỏ ăn, gầy còm… 3.2. Giáp mô • Giáp mô là yếu tố độc lực của vi khuẩn, có tác dụng giúp vi khuẩn chống lại thực bào. • Một số vi khuẩn có khả năng sinh giáp mô trong cơ thể gia súc: trực khuẩn và cầu khuẩn. Những vi khuẩn này nếu không sinh giáp mô thì không còn độc lực. Hiện tượng này được ứng dụng để chế vacxin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm. 3.3. Công kích tố • Nhiều loại vi khuẩn có khả năng ức chế sức đề kháng của cơ thể, đặc biệt là ức chế thực bào nhờ một chất được tạo ra trong quá trình sinh sống của chúng, gọi là công kích tố. • Trong khi ức chế sự tự vệ của cơ thể, công kích tố tạo nên bức màn che cho vi khuẩn sinh sản lan tràn khắp cơ thể. Công kích tố có thể tách riêng được từ nước thẩm xuất ổ viêm hoặc từ nước lọc canh trùng vi khuẩn gây bệnh. • Nếu cho công kích tố vào canh trùng có độc lực yếu thì độc lực của canh trùng đó được tăng lên. 95 3.4. Yếu tố lan truyền hay khuyếch tán • Tính chất ký sinh của mầm bệnh có liên quan đến khả năng xuyên vào mô bào của cơ thể, tính chất này phụ thuộc vào mức độ độc lực của mầm bệnh và khả năng ngăn cản sự xâm nhập của chúng vào mô bào của cơ thể. • Như vậy yếu tố lan truyền hay khuyếch tán là chất có khả năng làm tăng sức thẩm thấu của mô bào, làm tăng sức gây bệnh của nhiều loại mầm bệnh: VK Uốn ván, liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn… • Trong các mô liên kết của cơ thể có axit Hyaluronic có khả năng ngăn chặn các vật lạ và mầm bệnh lan tràn trong mô bào. • Bản chất tác động của yếu tố lan truyền là do mầm bệnh có khả năng sản sinh men Hyaluronidaza phân huỷ axit Hialuronic, làm tăng sức thẩm thấu của mầm bệnh và độc tố của chúng vào mô bào. • Ngoài yếu tố trên nhiều loại vi khuẩn gây bệnh nhờ có lông nên dễ xâm nhập và cư trú tại các mô bào. 3.5. Men • Ngoài các yếu tố trên mầm bệnh còn tác động bằng hệ thống men do chúng sinh ra. Liều tác động rất nhỏ có tác dụng như một chất xúc tác. • Nhiều loại vi khuẩn có khả năng sản sinh ra các men: Coagulaza và muxinaza phá huỷ mô liên kết, Haemolyzinaza làn tan vỡ hồng cầu, leucocidinaza phá huỷ bạch cầu Proteinaza có tác dụng phân huỷ protein Fibrinnolyzin có tác dụng làm tan tơ huyết Hyaluronidaza có tác dụng phân huỷ axit hyaluronic làm tăng tính thẩm thấu của mô bào Penixilinaza làm cho penixilin mất tác dụng… 96 3.6. Kết luận • Sau khi vào cơ thể mầm bệnh có thể gây tác hại tại chỗ: viêm, thủy thũng, hoại tử ngay chỗ xâm nhập. Có loại mầm bệnh không phát triển xa hơn mà chỉ nằm tại chỗ những vẫn có tác hại đến toàn thân do chất tiết của nó được dẫn đi khắp cơ thể thông qua cơ chế phản xạ. Có loại cùng với chất tiết của nó đi khắp cơ thể theo phương thức lan dần do phơi nhiễm hoặc theo mạch máu, mạch lâm ba gây nên những trạng thái nghiêm trọng như bại huyết, nhiễm trùng huyết… Hoặc theo đường thần kinh gây nên những rối loạn toàn thân phá hoại hoạt động bình thường của cơ thể. • Do có nhiều phương thức tác động khác nhau nên mầm bệnh có thể gây ra hiện tượng rối loạn toàn thân và rối loạn cục bộ. Triệu chứng toàn thân: sốt, ủ rũ, bỏ ăn, ỉa chảy… là triệu chứng chung của nhiều bệnh truyền nhiễm. Triệu chứng cục bộ do tính phản ứng của cơ thể quyết định và có ảnh hưởng đến toàn thân.  Có thể là tiên phát nếu bệnh phát ra ở cơ thể khoẻ mạnh hoặc thứ phát khi bệnh đang giảm. Những triệu chứng này điển hình riêng cho từng bệnh (bệnh THT lợn có hiện tượng sưng hầu họng, bệnh ĐDL có những đám đỏ hình vuông, tròn, bầu dục ở trên da...) • Nhiễm trùng không nhất thiết phải có triệu chứng biểu hiện ra bên ngoài, có những ca bệnh không có triệu chứng chiếm một tỷ lệ khá cao, gây khó khăn trong điều tra dịch tễ học.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdictehoc_thuy20070081_7052.pdf
  • pdfdictehoc_thuy20070097_076.pdf
Tài liệu liên quan