1.1. Khái niệm về đầu tư tài chính
Khi thu nhập hiện tại vượt quá nhu cầu tiêu dùng, người ta có xu hướng tiết kiệm
khoản dư thừa. Khoản tiết kiệm đó có thể được cất giữ trong hiện tại và sử dụng để chi
tiêu trong tương lai khi nhu cầu tiêu dùng vượt quá thu nhập. Thị trường tài chính ra đời
giúp những người thừa tiền có thể từ bỏ quyền sở hữu khoản tiết kiệm này ở hiện tại để
nhận một khoản tiền lớn hơn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Sự đánh
đổi giữa nhu cầu tiêu dùng hiện tại và kỳ vọng tiêu dùng cao hơn trong tương lai là lý do
dẫn đến tiết kiệm. Như vậy, trong trường hợp này, chúng ta đã từ bỏ quyền sở hữu đối
với khoản tiết kiệm ở hiện tại (trì hoãn tiêu dùng hiện tại) để mong nhận được một khoản
tiền lớn hơn trong tương lai. Trái lại, những ai tiêu dùng nhiều hơn thu nhập hiện tại (họ
phải đi mượn tiền để chi tiêu) sẽ phải trả lại một khoản tiền lớn hơn trong tương lai so
với lúc họ mượn. Cái bạn làm với khoản tiết kiệm này để gia tăng giá trị của nó theo thời
gian chính là sự đầu tư 1
Khoản chênh lệch giữa số chúng ta đã mượn và số tiền phải thanh toán trong tương
lai hay nói cách khác là khoản thặng dư trên số tiền tiết kiệm ban đầu được biết đến như
giá trị thời gian của tiền tệ (pure time value of money). Tỷ lệ giữa nhu cầu tiêu dùng
trong tương lai và tiêu dùng hiện tại chính là lãi suất thuần (pure rate of interest). Lãi suất
này được hình thành trên thị trường vốn trên cơ sở so sánh giữa cung của thu nhập thặng
dư (tiết kiệm) được đầu tư và nhu cầu tiêu dùng vượt mức (khoản vay mượn) tại một thời
điểm nhất định. Chẳng hạn, nếu bạn có thể lấy 100 đồng thu nhập sẵn có hôm nay đổi
108 đồng thu nhập sau một năm thì tỷ lệ lãi suất thuần (Pure rate of interest) đối với
khoản đầu tư phi rủi ro này là (108/100)*100% = 8%. Như vậy, những người từ bỏ 100
đồng hôm nay mong đợi sẽ được chi tiêu 108 đồng vào hàng hóa và dịch vụ trong tương
lai với giả định rằng chỉ số giá tiêu dùng trong nền kinh tế là không đổi.
Nếu nhà đầu tư dự báo về một sự thay đổi giá, họ sẽ yêu cầu một tỷ lệ thu nhập cao
hơn để bù đắp cho sự biến động giá trị tiền tệ theo thời gian. Chẳng hạn, nếu nhà đầu tư
dự báo rằng giá cả tăng (sẽ có lạm phát) ở mức 2% trong suốt thời gian đầu tư, họ sẽ tăng
tỷ suất lợi tức kỳ vọng thêm 2%. Trong ví dụ trên, nhà đầu tư yêu cầu 110 đồng cho việc
tiêu dùng trong tương lai để trì hoãn 100 đồng tiêu dùng hiện tại trong suốt thời kỳ lạm
phát (tỷ suất lợi tức phi rủi ro được yêu cầu là 10% thay vì 8 %).
81 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Đầu tư tài chính - Phạm Thị Minh Hiếu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này, đầu tiên chúng ta xác định sự đánh đổi giữa rủi ro
và lợi tức khi chọn lựa giữa tài sản rủi ro và tài sản phi rủi ro. Sau đó, chúng ta sẽ chỉ ra
mức độ ngại rủi ro của nhà đầu tƣ tác động nhƣ thế nào đến phƣơng án kết hợp tối ƣu
giữa hai loại tài sản nói trên.
3.1.1. Phân bổ vốn giữa tài sản rủi ro và tài sản phi rủi ro
Thông thƣờng, trái phiếu công ty dài hạn và cổ phiếu thƣờng là những tài sản tài
chính có rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc. Tuy vậy, những tài sản có rủi ro cao hơn
thƣờng mang lại mức lợi tức kỳ vọng cao hơn. Nhà đầu tƣ có thể đầu tƣ một phần vốn
vào tài sản rủi ro và phần còn lại vào tài sản phi rủi ro. Chẳng hạn, đầu tƣ một phần vốn
vào tín phiếu kho bạc, và phần còn lại vào các tài sản có rủi ro cao hơn nhƣ các loại cổ
phiếu thƣờng.
Chúng ta ký hiệu danh mục đầu tƣ gồm các tài sản rủi ro là P và tài sản phi rủi ro là
F, khi có sự phân bổ lại giữa tỷ trọng đầu tƣ vào danh mục đầu tƣ rủi ro P và tài sản phi
rủi ro F, chúng ta giả định không thay đổi tỷ trọng của những tài sản rủi ro trong danh
57
mục rủi ro P ban đầu. Danh mục P và F sẽ đƣợc kết hợp trong danh mục đầu tƣ tổng thể
hay còn gọi là danh mục kết hợp, ký hiệu là danh mục C.
Xem xét tình huống dƣới đây, giả định rằng tổng giá trị vốn đầu tƣ ban đầu của một
nhà đầu tƣ là 100 triệu đồng. Trong đó, 25 triệu đồng đƣợc đầu tƣ vào tín phiếu kho bạc
F (tài sản phi rủi ro). Phần vốn còn lại là 75 triệu đƣợc đầu tƣ vào danh mục chứng khoán
rủi ro, trong đó 45 triệu đƣợc đầu tƣ vào cổ phiếu thƣờng (E) và 30 triệu vốn đầu tƣ còn
lại là vào trái phiếu công ty dài hạn (B). Cổ phiếu thƣờng và trái phiếu công ty dài hạn
tạo nên danh mục đầu tƣ rủi ro, P, với tỷ trọng của:
E: w1 =
= 0,6 = 60%
B: w2 =
= 0,4 = 40%
Gọi tỷ trọng của danh mục rủi ro P trong danh mục kết hợp C (bao gồm tài sản phi
rủi ro F và danh mục tài sản rủi ro P) là y (%). Khi đó:
y =
= 0,75 = 75% Tài sản rủi ro
1-y =
= 0,25 = 25% Tài sản phi rủi ro
Ngoài ra, tỷ trọng đầu tƣ vào mỗi loại chứng khoán rủi ro trong danh mục đầu tƣ
kết hợp C là:
E:
= 0,45
B:
= 0,3
P = 0,75
Danh mục rủi ro P chiếm 75% trong danh mục đầu tƣ kết hợp C
Giả sử trên cơ sở dự báo khá bi quan về triển vọng của thị trƣờng chứng khoán, chủ
sở hữu danh mục đầu tƣ kết hợp này mong muốn giảm rủi ro bằng cách giảm tỷ trọng
phân bổ vốn vào danh mục rủi ro từ 75% xuống còn 60%. Giá trị danh mục rủi ro khi đó
còn lại là: 60% x 100 triệu đồng = 60 triệu đồng. Số tiền giảm là 15 triệu đồng sẽ đƣợc sử
dụng để đầu tƣ thêm vào tín phiếu kho bạc (tài sản phi rủi ro). Số tiền đầu vào tài sản phi
rủi ro sẽ tăng lên là 100 triệu đồng x (100% - 60%) = 40 triệu đồng, nghĩa là tăng thêm
15 triệu đồng
Tuy nhiên điểm mấu chốt ở đây là chúng ta đã giả định tỷ trọng của mỗi tài sản
trong danh mục rủi ro không thay đổi. Bởi vì, tỷ trọng của E và B trong danh mục đầu tƣ
rủi ro lần lƣợt là 60% và 40%, chúng ta bán 60% x 15 triệu đồng = 9 triệu đồng của E và
58
40% x 15 triệu đồng = 6 triệu đồng của B. Sau khi bán, tỷ lệ của mỗi loại tài sản trong
danh mục rủi ro vẫn không thay đổi
E: w1 =
= 0,6 = 60%
B: w2 =
= 0,4 = 40%
3.1.2. Danh mục đầu tƣ bao gồm một tài sản rủi ro và một tài sản phi rủi ro
Để đơn giản hóa, chúng ta xem xét hành vi của nhà đầu tƣ khi có sự thay đổi trong
tỷ suất lợi tức kỳ vọng và rủi ro của danh mục đầu tƣ kết hợp bằng cách thay đổi hỗn hợp
giữa tài sản rủi ro và tài sản phi rủi ro. Miễn là chúng ta không thay đổi tỷ trọng của mỗi
loại chứng khoán trong danh mục rủi ro, phân phối xác suất của tỷ suất lợi tức trên danh
mục rủi ro đƣợc giữ nguyên khi phân bổ lại tài sản.
Giả định rằng nhà đầu tƣ quyết định đầu tƣ vào một danh mục đầu tƣ kết hợp C bao
gồm danh mục tài sản rủi ro P với tỷ trọng là y% và tài sản phi rủi ro F với tỷ trọng là (1-
y)%
Gọi tỷ suất lợi tức và tỷ suất lợi tức kỳ vọng trên danh mục P lần lƣợt là Rp và E
(Rp) và độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi tức là p. Tỷ suất lợi tức của tài sản phi rủi ro là Rf.
3.2. Phân bổ vốn giữa các tài sản rủi ro và mô hình Markowitz
3.2.1. Phân bổ vốn giữa các tài sản rủi ro
Giả sử có hai tài sản rủi ro với tỷ suất lợi tức kỳ vọng và độ lệch chuẩn lần lƣợt là
E(r1) và E(r2),
E(Rp) = W1 E(R1) + W2 E(R2)
=
+
+ 2w1w2Cov(R1,R2)
= [
]
W1 =
( )
(2.5)
Chúng ta hãy xét đến 3 tình huống p=1, p=-1, p=0 và p là hệ số tƣơng quan giữa tỷ
suất lợi tức của 2 chứng khoán.
Trường hợp 1: p=1
= [
]
59
= w1 + w2 = w1 + (1-w1) (2.6)
Kết hợp (2.5) và (2.6) cho đƣờng biên phƣơng sai bé nhất E(Rp) = f(ơp). Dễ dàng
chứng minh đƣợc mối quan hệ giữa Rp và ơp là mối quan hệ tuyến tính.
Trường hợp 2: p= -1
= [
]
= (+) (-) [ - ] = (+)(-) [ + (1 - ) (2.7)
Kết hợp (2.5) và (2.7) cho đƣờng biên phƣơng sai bé nhất E(Rp) = f(ơp) là hai nửa
đƣờng thẳng.
Trường hợp 3: p= 0
= [
] (2.8)
Kết hợp (2.5) và (2.8) cho đƣờng biên phƣơng sai bé nhất E(Rp) = f(ơp) là một hàm
phi tuyến tính.
3.2.2. Phân bổ tối ƣu vốn đầu tƣ trên các tài sản rủi ro – mô hình Markowitz
Chúng ta thấy rằng ngay cả trong trƣờng hợp danh mục đầu tƣ đƣợc kết hợp từ các
tài sản đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên (không quan tâm đến đặc điểm của tài sản cũng nhƣ tỷ
trọng của tài sản trong danh mục), việc đa dạng hóa cũng góp phần giảm thiểu rủi ro. Tuy
nhiên, Markowitz đã phát triển lý thuyết danh mục đầu tƣ một cách khoa học hơn bằng
cách định lƣợng việc đa dạng hóa. Mô hình Markowitz đƣợc dựa trên một số giả thiết
chính lien quan đến hành vi của nhà đầu tƣ. Cụ thể nhƣ sau:
- Đầu tƣ trong một khoảng thời gian đơn (Ví dụ: 1 năm)
- Quyết định đầu tƣ đƣợc dựa trên tỷ suất lợi tức kỳ vọng và rủi ro của tài sản đầu
tƣ (đƣợc đo lƣờng bởi phƣơng sai hoặc độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi tức).
- Ở một mức rủi ro đƣợc xác định trƣớc, nhà đầu tƣ sẽ thích những cơ hội đầu tƣ
mang lại tỷ suất lợi tức kỳ vọng cao hơn. Tƣơng tự, ở một mức tỷ suất lợi tức kỳ vọng
đƣợc xác định trƣớc, nhà đầu tƣ sẽ thích những cơ hội đầu tƣ có rủi ro thấp hơn.
Với những giả thiết này: một tài sản đầu tƣ hoặc một danh mục các tài sản đầu tƣ
đƣợc xem là hiệu quả nếu không có bất kỳ tài sản hoặc danh mục đầu tƣ nào khác có
cùng mức rủi ro (hoặc rủi ro thấp hơn) nhƣng lại có tỷ suất lợi tức kỳ vọng cao hơn, hoặc
60
có cùng tỷ suất lợi tức kỳ vọng (hoặc tỷ sức lợi tức kỳ vọng cao hơn) nhƣng lại có rủi ro
thấp hơn.
Giả sử chúng ta có n chứng khoán với n tỷ suất lợi tức kỳ vọng, độ lệch chuẩn của
mỗi chứng khoán và hệ số tƣơng quan giữa các chứng khoán đã đƣợc ƣớc lƣợng. Với n
chứng khoán này, chúng ta có thể tạo thành vô số danh mục đầu tƣ bằng cách kết hợp tùy
các chứng khoán với nhau. Từ công thức xác định tỷ suất lợi tức kỳ vọng của danh mục
đầu tƣ và công thức xác định độ lệch chuẩn của danh mục đầu tƣ, chúng ta thấy rằng khi
thay đổi tỷ trọng của các chứng khoán trong danh mục, tỷ suaart lợi tức kỳ vọng và độ
lệch chuẩn của danh mục cũng thay đổi tƣơng ứng. Với vô số danh mục đầu tƣ đƣợc tạo
thành từ n chứng khoán nhƣ vậy, chúng ta có cần thiết phải xem xét hết tất cả các danh
mục hay không? Câu trả lời là không. Chúng ta chỉ quan tâm đến tập hợp các danh mục
đầu tƣ đƣợc gọi là các danh mục đầu tƣ hiệu quả. Markowitz là ngƣời đầu tiên đƣa ra
khái niệm danh mục đầu tƣ hiệu quả: đó là danh mục có rủi ro thấp nhất ở bất kỳ một tỷ
suất lợi tức kỳ vọng đƣợc xác định trƣớc; hoặc có tỷ suất lợi tức kỳ vọng cao nhất ở bất
kỳ một mức rủi ro đƣợc xác định trƣớc.
Chúng ta có thể tìm ra các danh mục đầu tƣ hiệu quả bằng 1 trong 2 cách sau:
Cách 1: Xác định danh mục có phƣơng sai bé nhất với một tỷ suất lợi tức kỳ vọng
cho trƣớc. Lặp lại công việc này nhiều lần với các mức tỷ suất lợi tức kỳ vọng khác nhau
sẽ cho ta tập hợp các danh mục có phƣơng sai bé nhất với các mức tỷ suất lợi tức kỳ
vọng cho trƣớc. Tập hợp các danh mục này sẽ tạo thành đƣờng biên phƣơng sai bé nhất.
Nửa trên của đƣờngbiên phƣơng sai bé nhất bắt đầu từ điểm có phƣơng sai bé nhất trong
tổng thể (đoạn AB) là đƣờng biên hiệu quả.
Cách 2: Xác định danh mục đầu tƣ có tỷ suất lợi tức cao nhất với một mức rủi ro
(độ lệch chuẩn) cho trƣớc. Tập hợp các danh mục này tạo ra đƣờng biên hiệu quả.
Trong thực tế, cách 1 đƣợc sử dụng phổ biến hơn cách 2. Cách 1 có thể tiến hành
qua các bƣớc sau:
(1) Ấn định một tỷ suất lợi tức kỳ vọng cho trƣớc ®
(2) Xác định danh mục có phƣơng sai bé nhất với mức tỷ suất lợi tức kỳ vọng đƣợc
ấn định từ bƣớc 1 qua bài toán tối ƣu hóa sau:
61
Chú ý, Wi > 0 nếu không cho phép mua bán khống
(3) Lặp lại (1) và (2) nhiều lần sẽ đƣợc tập hợp các danh mục có phƣơng sai bé
nhất.
Trên đƣờng biên phƣơng sai nhỏ nhất, điểm A thể hiện cho danh mục đầu tƣ có độ
lệch chuẩn nhỏ nhất so với độ lệch chuẩn của tất cả các danh mục đầu tƣ có thể đƣợc tạo
thành từ n chứng khoán. Phần trên của đƣờng biên phƣơng sai nhỏ nhất (phần AB) thể
hiện cho các danh mục đầu tƣ hiệu quả, đƣợc gọi là đƣờng biên hiệu quả. Các danh mục
đầu tƣ nằm trên đƣờng biên hiệu quả là những danh mục cung cấp các cơ hội rủi ro – lợi
tức tốt nhất so với tất cả các danh mục đầu tƣ có thể đƣợc tạo thành từ n chứng khoán.
Nhà đầu tƣ có thể chọn bất kỳ danh mục nào trên đƣờng biên hiệu quả này, tùy thuộc vào
hệ số ngại rủi ro của hộ.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng lời giải cho mô hình Markowitz xoay quanh vấn đề xác
định tỷ trọng của mỗi tài sản trong danh mục đầu tƣ. Bởi vì tỷ suất lợi tức kỳ vọng, độ
lệch chuẩn của mỗi tài sản và hệ số tƣơng quan giữa các tài sản đƣợc xem là đầu vào của
mô hình Markowitz, nên tỷ trọng của mỗi tài sản trong danh mục đầu tƣ là biến số cần
phải giải quyết để tìm ra danh mục đầu tƣ hiệu quả.
Hình 3.1: Đƣờng biên hiệu quả và đƣờng biên phƣơng sai nhỏ nhất
Tóm lại, một số điểm quan trọng cần lƣu ý về mô hình lựa chọn danh mục đầu tƣ
Markowitz:
62
1/ Lý thuyết danh mục đầu tƣ của Markowitz đề cập đến một mô hình hai tham số,
bởi lý thuyết này giả định rằng quyết định đầu tƣ của các nhà đầu tƣ đƣợc dựa tỷ suất lợi
tức kỳ vọng và độ lệch chuẩn (thể hiện cho rủi ro).
2/ Mô hình Markowitz tạo ra một tập hợp các danh mục đầu tƣ hiệu quả (hình
thành nên đƣờng biên hiệu quả). Trên đƣờng biên hiệu quả, không danh mục nào là tốt
hơn danh mục nào, việc lựa chọn danh mục nào là tùy thuộc vào đặc điểm ngại rủi ro của
mỗi nhà đầu tƣ.
3/ Mô hình Markowitz không giải quyết vấn đề đi vay theo lãi suất phi rủi ro để
bổ sung thêm vào danh mục các tài sản rủi ro.
4/ Bởi vì mỗi nhà đầu tƣ có thể thu nhập dữ liệu đầu vào khác nhau khi thực hiện
mô hình Markowitz, nên các kết quả ƣớc lƣợng cũng có thể khác nhau giữa mỗi nhà đầu
tƣ; chẳng hạn nhƣ tỷ suất lợi tức kỳ vọng, độ lệch chuẩn của mỗi chứng khoán, hệ số
tƣơng quan giữa các chứng khoán, đƣờng biên hiệu quả do mỗi nhà đầu tƣ ƣớc lƣợng có
thể cũng khác nhau. Đây cũng là một vấn đề lien quan đến việc ứng dụng mô hình
Markowitz trong đầu tƣ: thành công của việc lựa chọn danh mục đầu tƣ phụ thuộc vào
chất lƣợng của các tham số đầu vào.
5/ Mô hình Markowitz đòi hỏi phải ƣớc lƣợng một số lƣợng lớn các tham số đầu
vào.
3.3. Lựa chọn danh mục đầu tƣ tối ƣu
Sau khi xác định tập hợp các danh mục đầu tƣ hiệu quả đã đƣợc xác định bằng cách
sử dụng mô hình Markowitz, nhà đầu tƣ sẽ chọn từ tập hợp này một danh mục đầu tƣ tối
ƣu phù hợp với đặc điểm ngại rủi ro của họ.
3.3.1. Lựa chọn danh mục đầu tƣ tối ƣu trong trƣờng hợp không tồn tại tài sản phi
rủi ro
Chúng ta thấy rằng đƣờng biên hiệu quả bao gồm tập hợp các danh mục đầu tƣ hiệu
quả mà các nhà đầu tƣ có thể lựa chọn để tiến hành đầu tƣ. Việc chọn một danh mục đầu
tƣ hiệu quả từ đƣờng biên hiệu quả là tùy thuộc vào hệ số ngại rủi ro của nhà đầu tƣ.
Chúng ta cũng biết rằng các nhà đầu tƣ luôn muốn tối đa hóa giá trị hữu dụng có thể có
từ các cơ hội đầu tƣ sẵn có. Hay nói cách khác, các đƣờng cong hữu dụng đồng nhất cao
hơn luôn đƣợc lựa chọn hơn các đƣờng cong hữu dụng đồng nhất thấp. kết hợp hai điều
kiện này lại với nhau: khi không tồn tại tài sản phi rủi ro, danh mục đầu tƣ tối ƣu mà đầu
63
tƣ sẽ chọn là danh mục nằm trên đƣờng biên hiệu quả và tại đó đƣờng biên hiệu quả tiếp
xúc với đƣờng cong hữu dụng đồng nhất.
Hình 3.2: Sự kết hợp giữa đƣờng biên hiệu quả và đƣờng cong hữu dụng đồng nhất
Trên hình, X là danh mục đầu tƣ tối ƣu mà nhà đầu tƣ có hệ số ngại rủi ro A2 sẽ
chọn. Trong khi đó, Y là danh mục đầu tƣ tối ƣu mà nhà đầu tƣ có hệ số ngại rủi ro A1 sẽ
chọn.
3.3.2. Lựa chọn danh mục đầu tƣ tối ƣu trong trƣờng hợp tồn tại tài sản phi rủi ro
Giả thiết tồn tại tài sản phi rủi ro đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết định giá tài
sản (sẽ đƣợc thảo luận trong chƣơng 3). Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét ảnh hƣởng
của tài sản phi rủi ro đến tỷ suất lợi tức kỳ vọng và rủi ro của danh mục đầu tƣ khi tài sản
phi rủi ro đƣợc kết hopwjj với một danh mục đầu tƣ rủi ro trên đƣờng biên hiệu quả
Markowitz.
Tài sản phi rủi ro là tài sản mang lại một tỷ suất lợi tức kỳ vọng chắc chắn. Do vậy,
độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi tức trên tài sản phi rủi ro bằng không (ơ = 0). Tƣơng tự,
hiệp phƣơng sai (hay hệ số tƣơng quan) giữa tài sản phi rủi ro với bất kỳ tài sản rủi ro
hay danh mục các tài sản đầu tƣ rủi ro bằng không. Khi kết hợp một tài sản phi rủi ro với
một danh mục các tài sản đầu tƣ rủi ro, tỷ suất lợi tức kỳ vọng của danh mục đầu tƣ mới
này đƣợc xác định nhƣ công thức (2.1) đã chỉ rõ trƣớc đây:
E(Rc) = yE(Rp) + (1-y)Rf
Trong đó:
- E(Rc): Tỷ suất lợi tức kỳ vọng của danh mục đầu tƣ kết hợp giữa tài sản phi rủi ro
và danh mục các tài sản rủi ro
- E(Rp): Tỷ suất lợi tức kỳ vọng của danh mục của các tài sản rủi ro
64
- Rf : Tỷ suất lợi tức phi rủi ro
- y: Tỷ trọng của danh mục các tài sản rủi ro trong danh mục kết hợp
độ lệch chuẩn của danh mục kết hợp này đƣợc xác định nhƣ công thức (2.2)
= √
= y
Từ (2.1) và (2.2), chúng ta có (2.3)
E(Rc) = Rf +
[ ( ) ]
Chúng ta thấy rằng độ lệch chuẩn và tỷ suất lợi tức kỳ vọng của danh mục kết hợp
giữa tài sản phi rủi ro và danh mục các tài sản rủi ro có quan hệ tuyến tính với nhau. Giả
sử danh mục đầu tƣ rủi ro là một danh mục đƣợc chọn trên đƣờng biên Markowitz
(chẳng hạn danh mục A). Khi đó kết hợp giữa tài sản phi rủi ro và danh mục A theo một
tỷ trọng y nào đó sẽ cho chúng ta một danh mục đầu tƣ kết hợp nằm trên đƣờng thẳng đi
qua Rf và A (Hình dƣới đây). Phƣơng trình của đƣờng thẳng đi qua Rf và A có dạng nhƣ
chƣơng trình (2.3). Với bất kỳ danh mục đầu tƣ nào nằm trên đƣờng biên Markowitz và
dƣới điểm A, chúng ta luôn tìm đƣợc một danh mục đầu tƣ nằm trên đƣờng RfA có cùng
độ lệch chuẩn nhƣng cung cấp tỷ suất lợi tức kỳ vọng cao hơn. Nói cách khác, các danh
mục đầu tƣ nằm trên đƣờng RfA cung cấp cơ hội rủi ro – lợi tức tốt hơn các danh mục
tƣơng ứng nằm trên đƣờng biên Markowitz và dƣới điểm A. Tiếp tục, nếu chúng ta chọn
danh mục đầu tƣ B trên đƣờng biên Markowitz, chúng ta có thể tạo ra một danh mục nào
đó nằm trên đƣờng RfB bằng cách đầu tƣ tỷ trọng y (0 < y < 1) vào danh mục B và (1 –
y) vào tài sản phi rủi ro. Tƣơng tự, các danh mục đầu tƣ nằm trên đƣờng RfB cung cấp cơ
hội rủi ro – lợi tức tốt hơn các danh mục tƣơng ứng nằm trên đƣờng biên Markowitz và
dƣới điểm B (kể cả các danh mục nằm trên đƣờng RfA).
Hình 3.3: Danh mục đầu tƣ tối ƣu khi tồn tại tài sản phi rủi ro
65
Hình 3.4: Sự kết hợp giữa đƣờng biên hiệu quả và đƣờng phân bổ vốn
Chúng ta có thể tiếp tục chọn các danh mục tài sản rủi ro nằm trên đƣờng biên
Markowitz và cao hơn điểm B cho đến khi đạt đến điểm M đó đƣờng thẳng xuất phát tại
Rf tiếp xúc với đƣờng biên Markowitz. Chúng ta thấy rằng các danh mục đầu tƣ nằm
trên đƣờng RfM cung cấp hội rủi ro-lợi tức tốt hơn bất kỳ danh mục nào tƣơng ứng nằm
dƣới M. Đƣờng RfM đại diện cho tập hợp các danh mục đầu tƣ hiệu quả nhà đầu tƣ có
thể lựa chọn.
Sau khi đã xác định đƣợc tập hợp các danh mục đầu tƣ hiệu quả, nhà đầu tƣ sẽ lựa
chọn danh mục đầu tƣ tối ƣu dựa vào hệ số ngại ro của họ. Danh mục đầu tƣ tối ƣu cụ thể
mà nhà đầu tƣ sẽ chọn là mục nằm trên đƣờng thẳng RfM và tại đó đƣờng RfM tiếp xúc
với đƣờng cong hữu dụng của nhà đầu tƣ đó.
BÀI TẬP
Bài 1. Bạn nắm giữ một danh mục đầu tƣ với tỷ suất lợi tức kỳ vọng là 18% và độ
lệch chuẩn của tỷ suất lợi tức là 28%. Lãi suất của tín phiếu kho bạc là 8%.
a. Khách hàng của bạn chọn lựa đầu tƣ 70% vào danh mục đầu tƣ này và 30% vào
tín phiếu kho bạc. Tỷ suất lợi tức kỳ vọng và độc lệch chuẩn của tỷ suất lợi tức trên danh
mục đầu tƣ kết hợp (bao gồn cả tín phiếu kho bạc) của khách hàng này là bao nhiêu?
b. Giả định rằng danh mục đầu tƣ rủi ro của bạn bao gồm các cổ phiếu đƣợc phân
bổ theo tỷ lệ đầu tƣ nhƣ sau: CP A (25%), CP B (32%) và CP C (43%).
Tính tỷ trọng đầu tƣ vào các cổ phiếu trên trong danh mục đầu tƣ kết hợp?
c. Tính tỷ lệ phần thƣởng trên rủi ro (S) của danh mục đầu tƣ rủi ro và danh mục kết
hợp?
66
d. Vẽ đƣờng CAL của danh mục đầu tƣ kết hợp của khách hàng với mức tỷ suất lợi
tức kỳ vọng và độ lệch chuẩn đã tính. Hệ số góc của đƣờng CAL là bao nhiêu? Chỉ ra vị
trí khách hàng của bạn trên đƣờng CAL?
e. Giả định rằng khách hàng của bạn quyết định đầu tƣ vào danh mục đầu tƣ rủi ro
theo tỷ lệ y% trong tổng ngân sách đầu tƣ của ngƣời ấy để danh mục đầu tƣ kết hợp có tỷ
suất lợi tức kỳ vọng là 16%? Tính tỷ lệ y% và tính tỷ trọng đầu tƣ vào các loại cổ phiếu
và tín phiếu kho bạc của khách hàng trong tình huống này? Tính độ lệch chuẩn của tỷ
suất lợi tức trên danh mục đầu tƣ của khách hàng?
f. Giả định rằng khách hàng của bạn muốn đầu tƣ vào danh mục rủi ro với tỷ lệ y%
để tối đa hóa lợi tức mong đợi trên dự án đầu tƣ kết hợp với điều kiện độ lệch chuẩn của
danh mục không vƣợt quá 18%. Tính tỷ lệ y% và tính tỷ suất lợi tực kỳ vọng của danh
mục đầu tƣ kết hợp trong tình huống này?
g. Khách hàng của bạn có hệ số ngại rủi ro A= = 3,5. Tính tỷ lệ y% trong tổng ngân
sách đầu tƣ mà khách hàng nên đầu tƣ vào danh mục đầu tƣ của bạn? Giá trị kỳ vọng và
độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi tức trên danh mục đầu tƣ tối ƣu của khách hàng là bao
nhiêu?
67
CHƢƠNG 4: MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VỐN (CAPM)
4.1. Tổng quan về lý thuyết thị trƣờng vốn
4.1.1. Các giả định của lý thuyết thị trƣờng vốn
Vì lý thuyết thị trƣờng vốn xây dựng dựa trên lý thuyết danh mục đầu tƣ của
Markowitz nên lý thuyết này có những giả định tƣơng tự lý thuyết danh mục đầu tƣ,
ngoài ra còn bổ sung một số giả định khác. Cụ thể:
(1) Các nhà đầu tƣ là những cá nhân không thích rủi ro nhƣng luôn muốn tối đa hóa
lợi ích mong đợi. Tức là, các nhà đầu tƣ thích lựa chọn chứng khoán có tỷ suất sinh
lợi cao tƣơng ứng với rủi ro cho trƣớc hoặc rủi ro thấp nhất với tỷ suất sinh lợi cho
trƣớc. Nói cách khác, tất cả các nhà đầu tƣ đều là nhà đầu tƣ hiệu quả theo lý thuyết
Markowitz, nghĩa là nhà đầu tƣ mong muốn nắm giữ những danh mục nằm trên
đƣờng biên hiệu quả. Vì thế, vị trí chính xác của danh mục đầu tƣ trên đƣờng biên
hiệu quả đƣợc lựa chọn phụ thuộc vào hàm hữu dụng của mỗi nhà đầu tƣ.
(2) Các nhà đầu tƣ có thể vay hoặc cho vay tại mức lãi suất phi rủi ro (Rf) một số
lƣợng không giới hạn các tài sản trên một tỷ lệ cố định không đổi theo thời gian (lãi
suất phi rủi ro). Điều này đồng nghĩa rằng nhà đầu tƣ có thể cho vay ở mức lãi suất
phi rủi ro danh nghĩa bằng cách mua các chứng khoán rủi ro nhƣ tín phiếu kho bạc
(T-bills), và cũng đi vay ở mức lãi suất này.
(3) Tất cả các nhà đầu tƣ đều có kỳ vọng đồng nhất, tức là họ ƣớc lƣợng phân phối
xác suất lợi tức trong tƣơng lai nhƣ nhau. Nói cách khác, nhà đầu tƣ luôn có cùng suy
nghĩ về tỷ suất sinh lợi kỳ vọng, phƣơng sai và hiệp phƣơng sai. Vì thế, tất cả các nhà
đầu tƣ đều có kỳ vọng thuần nhất đối với một cơ hội đầu tƣ và có cùng thông tin thị
trƣờng vào cùng thời điểm.
(4) Tất cả các nhà đầu tƣ có cùng chu kỳ đầu tƣ, một tháng, sáu tháng hay một năm.
Mô hình này đƣợc xây dựng đối với một khoản thời gian giả định đơn. Sự khác nhau
về phạm vi thời gian đòi hỏi các nhà đầu tƣ xác định các chỉ tiêu đo lƣờng rủi ro và
lợi tức phù hợp với phạm vi thời gian đầu tƣ của họ.
(5) Tất cả các tài sản đầu tƣ đều có thể đƣợc chia nhỏ không hạn chế. Điều này có có
nghĩa là có thể mua bán hay với một tỷ lệ phần trăm của bất kỳ tài sản hay danh mục
nào đó.
68
(6)Các nhân tố làm thị trƣờng trở nên không hoàn hảo không tồn tại nhƣ thuế, luật,
chi phí môi giới hay bất cứ một sự ngăn cấm nào liên quan đến việc mua bán các tài
sản.
(7) Không có lạm phát hay bất kỳ sự thay đổi nào trong lãi suất, hoặc lạm phát có thể
đƣợc dự báo chính xác.
(8) Các thị trƣờng vốn đều ở trạng thái cân bằng . Điều này có nghĩa là tất cả các tài
sản đầu tƣ đƣợc định giá dung với mức độ rủi ro của chúng.
Chúng ta có thể thấy một vài trong số giả định này là phi thực tế và nghi ngờ về tính
hữu ích của lý thuyết đƣợc rút ra từ những giả định này. Trong vấn đề này, có hai điểm
quan trọng. Thứ nhất, nhƣ đã đề cập, việc bỏ đi một vài trong số các giả định này sẽ chỉ
ảnh hƣởng nhỏ đến mô hình và sẽ không làm thay đổi ứng dụng chính hay các kết luận.
Thứ hai, không nên đánh giá một lý thuyết dựa trên các giả định của nó mà nên đánh giá
dựa trên mức độ lý thuyết đó giải thích và giúp chúng ta dự báo để đƣa ra các quyết định
trong thực tiễn tốt đến mức nào. Nếu nhƣ lý thuyết này giúp chúng ta giải thích đƣợc tỷ
suất lợi tức trên nhiều tài sản rủi ro khác nhau, nó là hữu ích, ngay cả khi một vài giả
định của nó là phi thực tế. Điều này hàm ý rằng các giả định đáng nghi vấn không phải là
quan trọng so với mục tiêu cuối cùng của lý thuyết là để giải thích việc định giá các tài
sản.
4.1.2. Kết hợp một tài sản phi rủi ro với một danh mục đầu tƣ rủi ro
Khi kết hợp một tài sản phi rủi ro với một danh mục các tài sản rủi ro chẳng hạn nhƣ
các danh mục nằm trên đƣờng hiệu quả Markowitz thì TSLT của danh mục mới sẽ là:
E(Rp) = wF.RF + (1 - wF).E(Ri)
Trong đó:
wF: Tỷ trọng tài sản phi rủi ro trong danh mục
E(Ri): Tỷ suất lợi tức kỳ vòng trên danh mục i của các sản rủi ro
Đồng thời phƣơng sai của danh mục mới đƣợc xác định bởi công thức sau:
=
.
+
+ 2wF(1-wF)Cov(RF, Ri)
hay
=
.
+
+ 2wF(1-wF) ,
Chúng ta biết rằng phƣơng sai của tài sản phi rủi ro bằng 0, tức là = 0. Vì tƣơng
quan giữa tài sản phi rủi ro. Vì tƣơng quan giữa tài sản phi rủi ro với bất kỳ tài sản rủi ro
69
i nào đều bằng 0, Pf trong biểu thức trên cũng bằng 0. Vì vậy, bất kỳ thành phần nào
trong công thức phƣơng sai chứa một trong những yếu tố này sẽ bằng 0.
Do đó, độ lệch chuẩn là:
=
= √
= (1- )
Nhƣ vậy, độ lệch chuẩn của danh mục kết hợp giữa một tài sản phi rủi ro với các tài
sản rủi ro là tỷ lệ tuyến tính của độ lệch chuẩn danh mục các tài sản rủi ro.
Kết hợp rủi ro – lợi tức: Vì cả tỷ suất lợi tức kỳ vọng và độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi
tức của một danh mục là các kết hợp tuyến tính
Hình 4.1Biểu diễn các kết hợp có thể có giữa một tài sản phi rủi ro với các danh mục
tài sản rủi ro trên đƣờng biên hiệu quả Markowitz
4.1.3. Lựa chọn danh mục tối ƣu khi có sự tồn tại của tài sản phi rủi ro
Giả sử nhà đầu tƣ có thể đi vay và cho vay không giới hạn với lãi suất phi rủi ro thì
tập hợp hiệu quả các tài sản có rủi ro sẽ bị thay đổi. Nếu không có sự tồn tại tài sản phi
rủi ro thì các nhà đầu tƣ sẽ lựa chọn danh mục nằm trên đƣờng biên hiệu quả Markowitz.
Tuy nhiên, nếu tồn tại tài sản phi rủi ro thì nhà đầu tƣ sẽ có một danh mục với sự kết hợp
giữa các tài sản có rủi ro và tài sản phi rủi ro trên. Lúc này, DMĐT tối ƣu sẽ là danh mục
M mà tại đó bất cứ một nhà đầu tƣ nào cho dù có thái độ đối với rủi ro ra sao cũng đều
muốn nắm giữ nó. Do những giả thuyết của lý thuyết thị trƣờng vốn (không có thuế và
phí giao dịch, thong tin không đắt đỏ và luôn sẵn có đối với tất cả các nhà đầu tƣ, các nhà
đầu tƣ có cùng ƣớc lƣợng về đƣờng biên hiệu quả - sự kỳ vọng đồng nhất), nên tất cả các
nhà đầu tƣ nắm giữ cùng một danh mục tối ƣu. Tại danh mục M, nhà đầu tƣ dành hết vốn
sẵn có vào tài sản rủi ro, vì thế danh mục rủi ro tối ƣu M đƣợc gọi là danh mục thị
70
trƣờng. Đƣờng thẳng xuất phát từ TSLT của tài sản phi rủi ro (Rf) tiếp xúc với đƣờng
biên hiệu quả Markowitz tại M đƣợc gọi là đƣờng thị trƣờng vốn – CML (Capital Market
Line). Bởi vì M là danh mục thị trƣờng (bao gồm tất cả tài sản rủi ro) nên nó là danh mục
đƣợc đa dạng hóa hoàn toàn, có nghĩa là tất cả các rủi ro riêng của mỗi tài sản trong danh
mục đều đƣợc đa dạng hóa.
Hình 4.2: Lựa chọn một danh mục đầu tƣ tối ƣu trong thị trƣờng khi có sự tồn tại
của tài sản phi rủi ro
Tất cả các danh mục nằm trên đƣờng CML là kết hợp của danh mục tài sản rủi ro M
và một tài sản phi rủi ro, và việc lựa chọn DMĐT nào phụ thuộc vào thái độ đối với rủi
ro của nhà đầu tƣ.
* Nếu nhà đầu tƣ có mức ngại rủi ro cao (không ƣa thích rủi ro) thì anh ta sẽ đầu tƣ
một phần vào tài sản phi rủi ro ( cho vay với lãi suất phi rủi ro – Rf) và phần còn lại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_dau_tu_tai_chinh_pham_thi_minh_hieu.pdf