CHƯƠNG 1. TÍNH CHẤT VẬT LÝ CỦA ĐẤT
1.1. Mở đầu
Khi thiết kế nền móng công trình như nhà ở, cầu đường và đê đập thường cần các
kiến thức về (a) tải trọng truyền từ kết cấu phần trên xuống hệ móng (b) điều kiện địa chất
đất nền (c) tính chất ứng suất - biến dạng của đất mang hệ móng và (d) yêu cầu của các
quy tắc, quy phạm, tiêu chuẩn xây dựng. Đối với kỹ sư nền móng, hai yếu tố (b) và (c)
là vô cùng quan trọng vì chúng thuộc lĩnh vực cơ học đất.
171 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 600 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Cơ học đất nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trong hình 4.50b. Độ lớn của các sai số phụ thuộc vào φ’, được
trình bày trong phần tính toán ở ví dụ 4.14.
Ví dụ 4.14
Cho:
Các điều kiện ứng suất của thí nghiệm nén nở hông như trong hình 4.50a và 4.50b.
Yêu cầu:
Tìm sai số với giả thiết cường độ kháng cắt không thoát nước τf = c = ½ ∆σf thay cho τff của
sét cố kết thường có φ’ = 300.
Hình 4.50
122
Lời giải:
Từ công thức :
Từ αf = 450 + φ’/2. Nên αf = 600. Vì vậy
Nhưng τf = c = 0.5 ∆σf.
Kết luận: Cường độ τf = c lớn hơn khoảng 15% so với tff khi φ’ = 300. Lưu ý rằng sai số này
nhỏ hơn khi góc φ’ nhỏ hơn. Cũng cần lưu ý rằng
--------------------------
Ví dụ 4.14 chứng minh rằng cường độ kháng cắt thực của đất trên mặt phẳng phá hoại đã
được đánh giá quá cao bằng một nửa của cường độ kháng nén nở hông. Độ lớn của sai số tối
đa khoảng 15%.
Tại sao thí nghiệm nén nở hông dường như khá phù hợp? Thí nghiệm được sử dụng
khá phổ biến trong các phòng thí nghiệm ở Mỹ để xác định cường độ của đất cho thiết kế
móng nông và móng cọc trên nền đất sét. Một phần câu trả lời nằm ở các sai số có thể bù đắp.
Sự xáo trộn của mẫu đât có xu hướng giảm cường độ kháng cắt không thoát nước. Tính bắt
đẳng hướng cũng là một nhân tố ảnh hưởng, như giả thiết về biến dạng phẳng trong phần lớn
các thiết kế trong khi đó trạng thái ứng suất thực tế nhiều hơn ba chiều. Những nhân tố đó có
xu hướng giảm cường độ kháng cắt không thoát nước vì vậy sự khác biệt giữa tf = c và tff có
thể bỏ qua trong thực tế xây dựng. Ladd và nnk (1977) đã thảo luận về một số điểm trên.
4.5.9. Sử dụng sức kháng cắt không thoát nước (UU) trong thiết kế.
Giống với thí nghiệm CD và CU, cường độ không thoát nước UU có thể áp dụng
trong các trường hợp thiết kế với trạng thái tới hạn. Tải trọng trong các trường hợp đó
được giả thiết là tác dụng rất nhanh nên không có thời gian để áp lực nước lỗ rỗng tiêu
tán hoặc để xảy ra quá trình cố kết trong khoảng thời gian gia tải. Cũng giả thiết rằng sự
thay đổi ứng suất tổng trong quá trình xây dựng không ảnh hưởng đến cường độ kháng
cắt không thoát nước hiện trường của đất (Ladd, 1971b). Các ví dụ trong hình 4.51 thể
hiện giai đoạn kết thúc xây dựng khối đắp và móng đường, cọc, móng công trình trên nền
sét cố kết thường. Trong các trường hợp này, điều kiện trạng thái tới hạn thường đạt được
ngay lập tức sau khi gia tải (kết thúc xây dựng) khi đố áp lực lỗ rỗng là lớn nhất, trước
123
khi cố kết có thời gian để xẩy ra. Khi quá trình cố kết bắt đầu, hệ số rỗng, độ ẩm tự nhiên
giảm và cường độ tăng. Do đó khối đắp hoặc móng công trình trở nên ổn định hơn với
thời gian.
Thể hiện cường độ kháng cắt không thoát nước cho đất sét cố kết thường thông
qua hệ số τf/σ’v0 là một trong những cách hữu dụng. Hệ số này đôi khi được gọi là hệ số
c/p.
Hình 4.51
124
Trong các trầm tích sét tự nhiên, cường độ kháng cắt không thoát nước tăng theo độ sâu,
và tỷ lệ với ứng suất hiệu quả theo độ sâu. Vấn đề này đầu tiên được Skempton và
Henkel (1952) nghiên cứu và được Bjerrum (1954) xác nhận rằng hệ số τf / σ'v0 dường
như tăng khi chỉ số dẻo tăng. Kết quả nghiên cứu của Bjerrum (1954) được trình bày
trong hình 4.52 cùng với kết quả của một số nhà nghiên cứu khác; thêm vào đó, một số
quan hệ thích hợp cũng được trình bày trong hình này. Do có nhiều sự phân tán trong
hình 4.58 nên cần chú ý khi sử dụng. Tuy nhiên, như hình 4.38, những quan hệ như thế
hữu ích khi đánh giá sơ bộ và kiểm tra kết quả thí nghiệm.
Hình 4.58 Quan hệ giữa hệ số τf / σ'v0 và chỉ số dẻo của sét cố kết thường
Kenney (1959) và Bjerrum và Simons (1960) giới thiệu một số hệ số σ’vo với PI
lý thuyết dựa trên mối các quan hệ của K0 trong hình 4.38 và thông số áp lực lỗ rỗng
Skempton A. Những quan hệ lý thuyết này dường như thiên về giảm với PI, nhưng chỉ
đúng với PI > 30. Kenney (1959) kết luận rằng về cơ bản τf/σ’v0 độc lập với PI; hơn là
phụ thuộc vào lịch sử ứng suất của sét.
Bjerrum và Simons (1960) cũng chỉ ra mối quan hệ giữa τf/σ’v0 và chỉ số chảy
(LI) đối với một số sét trầm tích biển ở Nauy như trong hình 4.59. Như đã biết sét chảy là
những loại sét có LI cao. Do đó, sét chảy ở Nauy có hệ số τf/σ’v0 từ 0.1 đến 0.15.
125
Hình 4.59 Quan hệ giữa τf/σ’v0 và chỉ số chảy của đất sét Nauy
(theo Bjerrum và Simons, 1960)
Cần phải chú ý rằng hệ số τf/σ’v0 phụ thuộc phần lớn vào đường ứng suất tổng. Vấn đề
này đã được thảo luận bởi Bjerrum (1972) và Ladd và nnk (1977), cùng những người
khác. Nói một cách khác, sẽ có thể thu được các giá trị τf/σ’v0 khác nhau, phụ thuộc vào
loại thí nghiệm được áp dụng: thí nghiệm cắt cánh hiện trường, thí nghiệm nén một trục
hoặc thí nghiệm ba trục, hay thí nghiệm cắt phẳng.
Đôi khi cường độ kháng cắt không thoát nước được chuẩn hoá đối với áp lực cố
kết hiệu quả σ’vc hoặc ứng suất tiền cố kết σ’p thì sẽ tốt hơn nếu đất sét quá cố kết nhẹ.
Đối với những đất đó cường độ không thoát nước bị khống chế bởi áp lực cố kết hiệu quả
hơn là ứng suất địa tầng hiệu quả. Bjerrum (1972) đưa ra giả thuyết rằng hệ số giữa σ’p
và σ’vo biến đổi tương ứng với PI, như trong hình 11.60a. Đất sét được gọi là “trẻ” là đất
sét cố kết thường, trầm tích mới, vì vậy đất chưa có thời gian để trở thành quá cố kết bởi
bất cứ một yếu tố nào liệt kê trong bảng 8-1. Mặt khác, sét “có tuổi” là đất sét cố kết nhẹ,
và Bjerrum thấy rằng lượng quá cố kết tăng một chút đối với PI (hình 11.60b). Ảnh
hưởng cuối cùng tới cường độ của đất được biểu thị bởi đường cong đứt nét có tên
“Bjerrum (1972)” trong hình 4.58.
Từ những thảo luận về thí nghiệm cắt cánh mà Bjerrum (1972) đã đề xuất một hệ
số hiệu chỉnh cho thí nghiệm này dựa vào nghiên cứu phá hoại của một công trình đắp
ngoài thực tế. Để thuận tiện cho tham khảo, hình này được xây dựng lại mà không kể tới
tất các số liệu như trong hình 4.60c.
Mesri (1975) đã phát hiện ra một mối quan hệ rất thú vị giữa tất cả những giá trị
đo này. Kết hợp hình 4.60a và 4.60b Mesri đã nhận được hình 11.60d, τf/σ’p với PI, về
cơ bản thể hiện đặc tính tương tự của sét “trẻ” và sét “có tuổi”. Áp dụng hệ số hiệu chỉnh
126
Bjerrum µ cho thí nghiệm cắt cánh để thu được cường độ của đất ngoài hiện trường; kết
quả là hình 4.60e. Nói cách khác, (τf/σ’vc)hiện trường gần như là một hằng số bằng 0.22 và
độc lập với PI! Có một điều rất không rõ ràng trong kết luận này bởi sự phân tán trong
các mối quan hệ thực nghiệm mà nó dựa vào, và các quan hệ thể hiện trong hình 4.60d và
4.60e có thể chỉ là một sự trùng hợp.
Vẫn có khả năng ở hiện trường hệ số τf/σ’p tồn tại trong phạm vi tương đối hẹp,
đối với đất sét trầm tích mềm có những mối liên quan thực tế rất lớn (Ladd và nnk, 1977).
Chúng ta đã đề cập một cách ngắn gọn rằng phân tích lún, để hoàn thiện, cũng
phải xét tới lún tức thời hay lún lệch của công trình. Quy trình tính lún tức thời thường sử
dụng lý thuyết đàn hồi, và một trong những tồn tại lớn nhất đó là xác định hoặc ước
lượng chính xác môdul đàn hồi của đất. Cách hiển nhiên là lấy góc dốc ban đầu của
Hình 4.60
127
đường cong ứng suất - biến dạng, được gọi là môdun tiếp tuyến, khi xác định từ thí
nghiệm ba trục. Hoặc, do đường cong ứng suất - biến dạng thường rất cong nên có thể lấy
môdul cát tuyến, đó là độ dốc của đường thẳng vẽ từ gốc toạ độ tới một cấp ứng suất xác
định trước chẳng hạn như 50% của ứng suất lớn nhất. Cách xác định này được trình bày
trong hình 4.61. Vì lún tức thời diễn ra trước khi xảy ra cố kết, thí nghiệm ba trục phải
được thực hiện trong điều kiện không thoát nước. Vì vậy modun này, dù được xác đinh
bằng cách nào, được gọi là môdun không thoát nước Eu.
Tuy nhiên, như đã được chỉ ra bởi nhiều nhà nghiên cứu, modun không thoát
nước bị ảnh hưởng lớn bởi sự xáo trộn mẫu đất. Phần lớn sự xáo trộn có xu hướng giảm
Eu, và vì vậy thường có xu hướng dự báo quá mức độ lún tức thời ngoài hiện trường.
Do một số yếu tố khác ảnh hưởng tới modul không thoát nước ở các thí nghiệm trong
phòng (D’Appolonia, Poulos, và Ladd, 1971; Simons, 1974) nên thí nghiệm nén hiện
trường đôi khi được sử dụng cho các dự án quan trọng. Thông qua đo lún, modun Eu
được tính ngược theo lý thuyết đàn hồi. Thí nghiệm nén đã chỉ ra rằng cấp ứng suất là
một trong những yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng lớn tới Eu. Ví dụ, các thí nghiệm với
cấp tải trọng lớn thực hiện ở Nauy và Canada (Hoeg, và nnk, 1969; Tavenas và nnk,
1974) đã cho thấy lún rất ít nếu tải trọng tác dụng tức thời cho tới khi bằng một nửa giá
trị tải trọng gây phá hoại. Sau đó lứn bắt đầu gia tăng khi tải trọng tăng. Vì vậy các giá trị
Eu được tính ngược phụ thuộc nhiều vào cấp ứng suất cắt do tải trọng trên mặt gây ra.
Hình 4.61
128
Do có những khó khăn trong việc xác định Eu bằng các thí nghiệm trong phòng và
do các thí nghiệm nén tải trọng lớn ngoài hiện trường chi phí cao nên thường giả thiết
rằng Eu có quan hệ với sức kháng cắt không thoát nước. Ví dụ, Bjerrum (1972) cho rằng
hệ số Eu/τf dao động trong khoảng từ 500 đến 1500, trong đó τf được xác định từ thí
nghiệm cắt cánh. Giá trị thấp nhất tương ứng với đất sét dẻo cao và tải trọng áp dụng lớn
so với giá trị σ’p – σ’vo (đó là ứng suất tăng thêm lên móng tương đối lớn). Giá trị lớn
hơn tương ứng với sét dẻo thấp, ở đó tải trọng tác dụng tương đối nhỏ. D’Appolonia,
Poulos, và Ladd, 1971 đã công bố một giá trị trung bình Eu/τf là 1200 cho thí nghiệm nén
ở 10 vị trí, nhưng cho đất sét có tính dẻo cao phạm vi dao động từ 80 đến 400. Simons
(1974) đã tìm ra các giá trị dao động từ 40 đến 3000! Những trường hợp này và một số ví
dụ khác được lấy từ tài liệu tham khảo được vẽ với PI. Những loại đất cứng, nứt nẻ và
băng tích không được xét ở đây. Có sự phân tán lớn của hệ số Eu/τf khi PI < 50 nhưng
không nhiều số liệu cho trường hợp PI > 50. Để đánh giá lún tức thời của đất sét mềm có
vẻ hợp lý khi sử dụng gợi ý của Bjerrum (Eu/τf từ 500 đến 1500) và quy trình được
D’Appolonia và nnk (1971) phát triển.
Một yếu tố khác ảnh hưởng lớn đến cường độ kháng cắt không thoát nước của đất
sét đó là lịch sử ứng suất. Yếu tố này đã được đề cập khi chỉ ra sự khác biệt trong ứng xử
của đất sét cố kết thường và quá cố kết. Trước tiên cùng xem xét một số số liệu cho thấy
sự biến đổi của cường độ không thoát nước được chuẩn hoá τf/σ’vc với hệ số quá cố kết
(OCR). Ladd và nnk (1977) đã chỉ ra rằng hệ số này của các tỷ số gần như bằng giá trị
OCR mũ 0.8, hay
Những quan hệ giống như vậy có thể hữu ích cho việc so sánh dữ liệu về cường độ thu
được từ các vị trí khác nhau hoặc thậm chí tại cùng một vị trí.
Ladd và nnk (1977) cũng cho thấy sự biến thiên của Eu/τf với OCR như thế nào, nhưng
quan hệ này không đơn giản bởi vì, như đã đề cập ở phần trước, Eu/τf phụ thuộc rất lớn
vào cấp ứng suất cắt. Tuy nhiên, nhìn chung ở một cấp ứng suất xác định hệ số này giảm
khi OCR tăng.
129
4.5.10. Các quan hệ của độ bền cắt không thoát nước, cu
Độ bền cắt không thoát nước, cu, là một thông số quan trọng trong thiết kế nền
móng.
Đối với trầm tích sét cố kết thông thường (Hình 4.62), độ lớn của cu tăng hầu như
tuyến tính với lượng tăng áp suất tầng phủ hiệu quả.
Có nhiều quan hệ kinh nghiệm giữa cu và áp suất tầng phủ hiệu quả hiện trường.
Bảng 4.4 tóm tắt một số quan hệ đó.
4.5.11. Độ nhạy
Đối với nhiều đất sét trầm tích tự nhiên, độ bền nén không hạn hông nhỏ hơn
nhiều khi đất được thí nghiệm sau khi bị xáo trộn mà độ ẩm không thay đổi. Tính chất
này của đất sét được gọi là độ nhạy. Độ nhạy là tỷ số giữa độ bền nén không hạn hông
khi đất ở trạng thái nguyên trạng với độ bền nén không hạn hông khi ở trạng thái xáo trộn
hay :
(4.29)
Độ nhạy của phần lớn sét trong phạm vi khoảng từ 1 đến 8; tuy nhiên, trầm tích
sét biển dạng bông cao có thể có độ nhạy khoảng từ 10 đến 80. Một số sét chuyển sang
dịch thể nhớt khi bị xáo trộn. Sự mất độ bền của đất sét do xáo trộn chủ yếu vì sự phá
hoại của kết cấu hạt sét đã được phát triển trong quá trình trầm tích ban đầu.
( )
( )xaotronu
gnguyentranu
t q
q
S =
Mặt nước ngầm
cu = độ bền cắt
không thoát
σ0’ = áp suất hiệu
Sét
Hình 4.62. Trầm tích sét
130
Bảng 4.4 Quan hệ kinh nghiệm giữa cu và áp suất hiệu quả tầng phủ
Tác giả
Quan hệ
Chú thích
Skempton,
1957
IP – chỉ số dẻo (%); cuVTS - độ bền
chống cắt không thóat nước từ thí
nghiệm cắt cánh
Sét cố kết bình thường
Chandler, 1988
)(0037,011,0
' Pc
uVST Ic +=
σ
;
σ’c - áp suất quá cố kết
Có thể dùng cho đất quá cố
kết. Độ chính xác ±25%.
Không dùng cho sét nhậy
và nứt nẻ.
Jamiolkowski
& nnk, 1985 04,023,0'
±=
c
uc
σ
Dùng cho sét quá cố kết
nhẹ.
Mesri, 1989 22,0'0
=
σ
uc
Bjerrum &
Simons, 1960 )('0
LIf
cu =
σ
;
LI – chỉ số chảy
Dùng cho sét cố kết thông
thường
Ladd & nnk
1977
( ) 8,0
0
0
'
'
OCR
c
c
huongcoketbinht
u
quacoket
u
=
σ
σ
0'
'
σ
σ cOCR =
OCR–hệ số quá cố kết
Hình 4.63. Biến thiên với chỉ số chảy (theo Bjerrum và Simons 1960) ,
0σ
uc
Chỉ số dẻo
,
0σ
uc
)(0037,011,0
'0
P
uVST Ic +=
σ
131
CHƯƠNG 5. KHÁI NIỆM VỀ CƠ HỌC ĐẤT KHÔNG BÃO
HÒA & TRẠNG THÁI TỚI HẠN CỦA ĐẤT
5.1. Khái niệm về cơ học đất không bão hòa
5.1.1. Khái niệm về đất không bão hòa
Đất bão hòa là loại đất gồm hai pha (pha rắn và pha lỏng) và có áp lực nước lỗ
rỗng dương. Đất không bão hoà là loại đất có nhiều hơn hai pha và có áp lực nước lỗ
rỗng âm, liên quan với áp lực khí lỗ rỗng. Lambe và Whitman (1979) định nghĩa đất
không bão hoà là hệ ba pha bao gồm pha rắn, pha nước và pha khí. Theo Fredlund và
Morgensten (1977), khi phân tích ứng suất của môi trường liên tục nhiều pha, cần nhận
thức pha trung gian khí - nước ứng xử như một pha độc lập, khi đó đất không bão hoà là
hệ bốn pha: pha rắn, pha khí, pha nước và mặt ngoài căng hay mặt phân cách khí - nước.
Môi trường đất không bão hoà được gặp khá phổ biến trong thực tế xây dựng
công trình. Quá trình đào hố móng, đất đắp đê, đập đất chế bị và đầm nén thường tạo ra
vật liệu không bão hoà.
Mô hình hóa của đất bão hòa/không bão hòa được biểu diễn theo sơ đồ như trong
hình 5.1. Khái niệm về hệ bão hòa và không bão hòa và không bão hòa, sự phân bố các
đới có độ ẩm khác nhau được trình bày ở hình 5.2
Hình.5.1 Mô hình hóa của đất bão hòa/không bão hòa
Đất bão hoà(bh)
• Đất bão hoà chỉ chứa
hạt rắn và nước: môi
trường 2 pha;
• Lỗ rỗng chứa đầy
nước;
• Độ bão hoà: vn/vr= 1;
• Độ chứa nước thể tích:
θw= vn/v = vr/v = n
• Độ rỗng (n): n = vr/v;
Đất không bão hoà (kbh)
• Đất không bão hoà chứa hạt
rắn, khí và nước: môi trường
3 pha;
• Lỗ rỗng chứa cả khí và
nước;
• Độ bão hoà: vn/vr< 1;
• Độ chứa nước thể tích:
θw= vn/v θw < n
• Độ rỗng (n): n = Vr/V;
V
Vn = Vr
Vh
ĐÊt BH
Vr – thể tích rỗng của phân tố đất
V – tổng thể tích của phân tố đất
ĐÊt kh«ng BH
Vk khÝ
Vn níc
Vh r¾n
Vr
Vk ≠ 0
Vn ≠ 0
Vh ≠ 0
Vm ≈ 0 Sơ đồ
lý thuyết
đkbh
khÝ
níc
r¾n
mÆt c¨ng
132
Hình.5.2 Trình bày khái niệm về hệ đất bão hòa/không bão hòa.
Hình 5.3 biểu diễn quá trình thay đổi áp lực lỗ rỗng vùng đất nằm trên đường bão
hoà khi có quá trình mưa và bốc hơi. Khi bề mặt đất được che phủ kín, không có quá
trình mưa và bốc hơi tác động thì áp lực lỗ rỗng có dạng đường thẳng giống như áp lực
thuỷ tĩnh (đường 1). Khi vùng đất không có quá nước mưa cung cấp từ trên xuống,
thường sẽ xuất hiện quá trình bốc hơi nước từ trong đất đi ra, làm độ ẩm giảm (hay độ hút
dính tăng lên) dẫn tới đường áp lực lỗ rỗng dịch chuyển về phía trái (đường 2), cường độ
chống cắt tăng lên làm cho hệ số ổn định mái dốc tăng. Vùng thay đổi lớn nhất nằm ở
vùng gần bề mặt đất. Thời gian bốc hơi càng dài thì đường áp lực lỗ rỗng càng dịch về
bên trái, và dần dần mực nước ngầm hạ thấp. Khi có mưa thì lượng nước mưa sẽ thấm
vào trong đất, làm cho đường áp lực lỗ rỗng dịch chuyển về bên trái (đường 3). Quá trình
này sẽ làm cho vùng không bão hoà thu hẹp, cường độ chống cắt giảm dẫn đến mất ổn
định mái dốc.
§íi kh«ng b·o hoµ
Đập đất
LT. chiều cao đới BH MD
• Cát hạt thô: h rất nhỏ
• Đất bụi: h có thể đạt 2m
• Đất sét: h có thể đạt trên 20m
S¬ ®å h¹t
B¸n kÝnh mÆt khum
0,0002
0,002
0,02
Theo thí nghiệm
Độ cao dâng mao dẫn ứng với các
đường kính mặt khum khác nhau
(Janssen & Dempsey, 1980)
Không BH: uw và ua
Khô: u = 0
Bão hoà MD: u < 0
Bão hoà: u > 0
+
-
u = γw.h w
+
-
(1
(2
(3
(4
133
Hình.5.3 Mặt cắt phân bố áp lực lỗ rỗng trong vùng đất không bão hoà
(Fredlund và Rahardjo, 1993)
Mô hình dòng thấm trong đất bão hòa/không bão hòa được minh họa trong hình
5.4. Khi môi trường đất bão hòa các lỗ rỗng chứa đầy nước do đó dòng nước thấm môi
trường đất theo đường ngắn nhất dẫn đến hệ số thấm trong đất lớn. Khi trong môi trường
lỗ rỗng xuất hiện các bọt khí thì đường thấm kéo dài hơn do đó đường dòng thấm kéo dài
hơn dẫn đến hệ số thấm trong đất giảm. Khi các đường dòng thấm trong môi trường đất
đã ngăn bởi các bọt khí thì hiện tượng thấm trong môi không xảy ra, hệ số thấm giảm gần
về không.
134
Hình 5.4. Mô hình dòng thấm trong đất không bão hòa
5.1.2. Các biến trạng thái ứng suất
Mặt phân cách khí – nước tạo ra sức căng mặt ngoài sẽ tạo nên ứng suất phụ thêm
và gọi là độ hút dính được thể hiện ở biểu thức sau:
( )wamatric uu −=σ
Thành phần lực hút dính này rất quan trọng trong cơ học đất không bão hoà, nó
góp phần mở rộng phát triển nguyên lý ứng suất có hiệu quả của Terzaghi trong CHĐ cổ
điển cho đất bão hoà. Nó ảnh hởng lớn đến tính thấm và chống cắt của đất
Tác động pha khí:
- Ảnh hưởng tới vận
tốc thấm;
- Mặt phân cách
“Nước - Khí“ tạo
sức căng mặt ngoài
trong hệ.
- Tạo ra pha thứ 4.
S=1 1>S>Sr S=Sr
S - Độ bão hoà ; Sresidual - Độ bão hoà dư
KhÝ
KhÝ
V.Genuchten đã đưa ra độ bão hòa
hiệu quả như sau:
1〈
−
−=
residusat
residu
e SS
SSS
135
+ Đất không bão hoà:
* Năm 1962 Bishop - Henkel đã đề xuất phương trình ứng suất hiệu quả thông qua ứng
suất tổng và áp lực hút dính như sau:
σ’ = σ - [ua - χ (ua - uw)]
uw- áp suất nớc lỗ rỗng
ua- áp suất khí lỗ rỗng
χ - hệ số, phụ thuộc chủ yếu độ bão hoà, một phần vào khung cấu trúc của đất.
Khi đất ở trạng thái khô thì χ = 0; khi đất ở trạng thái bão hoà thì χ = 1. Giá trị biến đổi
hệ số χ theo độ bão hòa được trình bày ở hình 5.5.
Hình.5.5 Quan hệ giữa thông số χ và độ bão hòa của đất bụi Bearhead Bishop và nnk,
1960
“Matric suction” kiểm soát và khống chế các đặc tính cơ bản của đất không bão
hòa: tính thấm, độ bền chống cắt và tính biến dạng
Các biến trạng ứng suất trong đất không bão hòa được biểu thị dưới dạng Tenso cầu ứng
suất được trình bày dưới đây:
* Phát triển theo Fredlund và Rahardjo (1993): đã đề các biến trạng thái ứng suất độc lập như
sau:
σ’ = σ - u a
ua - uw
‘matric suction’
áp suất hút dính
Biến trạng ứng suất
136
Các quan hệ cơ bản trong hệ đất bão hoà/không bão hoà: các công thức biểu diễn các
quan hệ cho đất không bão hòa được xây dựng và phát triển trên cơ sở đất bão hòa. Các
biểu thức chủ yếu tập trung vào: Cường độ chống cắt, tính thấm và biến thiên thể tích.
Hình .5.6 thể hiện các quan hệ cơ bản của đất bão hòa/không bão hòa.
Hình.5.6 Các quan hệ cơ bản của đất bão hòa/không bão hòa
Đường cong đặc trưng Đất – Nước
Trên thực tế có nhiều bài toán Địa kỹ thuật liên quan tới môi trường đất không bão
hoà như đất tàn tích, đất trương nở, đất nén sập, đất đầm nện,... Đường cong đặc trưng đất -
137
nước (SWCC) là thông số trung tâm của cơ học đất cho đất không bão hòa. Đường cong biểu
diễn mối quan hệ giữa độ ẩm thể tích và lực hút dính (ua - uw) của đất, mô tả lượng chứa
nước trong đất theo lực hút dính, khống chế các đặc tính của đất không bão hoà như hệ số
thấm, cường độ chống cắt và biến thiên thể tích của đất (Williams, 1982).
Hình.5.7. Hàm đặc trưng đất nước
Giá trị khí vào tới hạn: độ hút dính ứng với lúc khí có thể thấm vào các lỗ rỗng lớn nhất.
Độ ẩm dư hay độ bão hoà dư: độ bão hoà thấp nhất khi nước trong các lỗ rỗng không liên
thông.
Dạng của đường cong đặc trưng đất - nước (SWCC) phụ thuộc độ lớn và phân bố
kích cỡ lỗ rỗng trong đất. Đối với đất hạt thô, đồng đều thì thường tạo ra độ rỗng lớn dẫn đến
hệ số thấm lớn, đường quan hệ lưu lượng/độ ẩm giảm nhanh khi độ hút dính trong đất tăng
lên. Ngược lại, đối với đất hạt mịn, có cấp phối tốt thì độ rỗng và hệ số thấm trong đất lớn,
đường quan hệ lưu lượng/ độ ẩm giảm chậm hơn khi độ hút dính tăng lên. Hình.5.8 trình bày
dạng đặc trưng của của đường SWCC phụ thuộc vào phân bố cỡ lỗ rỗng trong đất.
Hình .5.8. Dạng của SWCC phụ thuộc phân bố cỡ lỗ rỗng trong đất
Hàm đặc trưng đất – nước và đường đặc trưng đất - nước cho sét, bụi và cát mịn được
cho trong hình 5.9.
138
Hình.5.9 Đường đặc trưng Nước - Đất cho sét, bụi và cát mịn
Phương trình đường cong đặc trưng đất-nước
Dạng phương trình biểu thị mối quan hệ giữa lực hút dính và độ ẩm thể tích thường
được sử dụng là phương trình của Fredlund & Xing (1994).
(5.1)
Trong đó:
h = Cột nước độ hút dính
hr = Độ hút dính tương ứng với độ ẩm dư
n = Độ dốc tại điểm uốn của ĐCĐN
m = Độ dốc tại độ ẩm dư
Chú ý: Phương trình trên có thể khớp với các số liệu thuộc đường cong phân bố cỡ hạt,
đường nén và đường đặc trưng Đất - Nước, với các thông số a, n, m biến đổi tuỳ loại đ-
ường cong.
5.1.3 Hàm thấm
Trong đất không bão hoà, hệ số thấm chịu ảnh hưởng lớn của các thay đổi tổng hợp
trong hệ số rỗng và độ bão hoà (hay độ ẩm) của đất. Hệ số thấm của đất không bão hoà có thể
biến đổi nhiều trong quá trình chuyển tiếp do các thay đổi về tính chất thể tích-khối lượng.
Thay đổi hệ số rỗng trong đất không bão hoà có thể nhỏ và ảnh hưởng của nó đến hệ số thấm
có thể không đáng kể nhưng ảnh hưởng của thay đổi độ bão hoà hay độ ẩm thể tích đến hệ số
thấm có ý nghĩa hơn. Do đó, hệ số thấm thường được xem là một hàm riêng của độ bão hoà s,
hay của độ ẩm thể tích θw.
( )
m
naheh
hh
r
r
s
+
+
+
−=
/ln
1
/10000001ln(
)/1ln(1θθ
139
Hàm thấm mô tả biến thiên hệ số thấm theo lực hút dính. phản ánh bản chất và có
dạng của SWCC. Hệ số thấm nước của đất có thể được xác định bằng các phương pháp gián
tiếp hoặc trực tiếp.
Các phương pháp trực tiếp được thực hiện bằng cách đo trực tiếp hệ số thấm dựa vào
các thiết bị đo thấm và thường được gọi là thí nghiệm thấm. Trên thực tế, phương pháp đo
trực tiếp hệ số thấm nước của đất không bão hoà là tốt nhất nhưng thường khó khăn, thiết bị
phức tạp và tốn nhiều thời gian.
Các phương pháp gián tiếp thường được dùng là sử dụng các đặc trưng thể tích-khối
lượng và đường cong độ hút dính theo độ bão hoà hay đường cong đặc trưng đất-nước để dự
tính hệ số thấm. Nhiều phương trình bán kinh nghiệm cho hệ số thấm đã được suy ra từ
đường cong độ hút dính-độ bão hoà hay đường cong đặc trưng đất-nước (swcc). Trên thực tế,
hầu hết các hàm thấm được xác định từ đường swcc. Hình 5.10 thể hiện hàm thấm trong
vùng không bão hòa.
Hình.5.10. Hàm thấm trong vùng không bão hòa.
Đường cong đặc trưng đất – nước có thể được xác định bằng buồng áp lực ( Tempe - Soil
moisture Equip. Corp.in Santa Barbara, Calif.USA), từ đó suy ra đường cong thấm theo
phương pháp gián tiếp. Sơ đồ buồng áp lực Tempe (Soil - moisture Equipment
Corporation, 1985) cho trong hình 5.10.
140
Hình.5.10 Buồng áp lực Tempe (Soil - moisture Equipment Corporation, 1985)
Hàm thấm có thể được xác định trực tiếp từ các thí nghiệm trong phòng. Tuy nhiên
việc thí nghiệm xác định hàm thấm trực tiếp từ thí nghiệm thường rất tốn kém và tốn khá
nhiều thời gian. Hàm thấm có thể được thiết lập từ phương trình của Campbell (1974):
(5.2)
Trong đó: ks= hệ số thấm bão hoà
= độ hút dính (kpa)
p = hệ số mũ (power) để điều chỉnh kết quả dự tính
5.1.4. Cường độ chống cắt của đất không bão hòa
Fredlund và nnk. (1978) kiến nghị phương trình cường độ chống cắt cho đất không
bão hoà bằng việc dùng các biến trạng thái ứng suất, (tức là ( )auσ − và độ hút dính,
( )a wu u− ) như sau:
( ) ( )' tan ' tan bff f a a w ffc u u uτ σ φ φ= + − + − (5.3)
Trong đó:
τ ff = ứng suất cắt trên mặt trượt ở trạng thái phá hoại,
c′ = lực dính hiệu quả từ đường bao phá hoại Mohr-Coulomb “kéo
dài” trên trục ứng suất cắt khi ứng suất pháp thực và độ hút dính
bằng không,
( )f a fuσ − = ứng suất pháp thực trên mặt trượt khi ở trạng thái phá hoại,
( )ΨΘ= pskk
s
w
Θ
Θ
=Θ
141
σf = ứng suất pháp tổng trên mặt trượt khi ở trạng thái phá hoại,
ua = áp lực khí lỗ rỗng,
φ′ = góc ma sát trong ứng với ứng suất pháp thực, ( )f auσ − ,
( )a w fu u− = độ hút dính ở trạng thái phá hoại,
uw = áp lực nước lỗ rỗng, và
bφ = góc biểu thị tốc độ tăng về độ bền chống cắt ứng với sự tăng lên
của độ hút dính, ( )a w fu u− , ở trạng thái phá hoại.
Đường bao phá hoại mohr-C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_co_hoc_dat_nang_cao.pdf