Ở Việt Nam, tập đoàn giáo dục bao gồm cả trường đại học mới xuất hiện
trong khu vực tư nhân và tập đoàn hóa đại học công lập chưa được thể chế hóa
trong chính sách đổi mới giáo dục đại học. Trong khi đó trên thế giới một số nước
như Malaysia, Nhật Bản, Canada đã tiến hành tập đoàn hóa trong giáo dục đại học
biến các đại học công lập thành các pháp nhân độc lập với cơ quan quản lý nhà
nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật và tự chủ hoạt động đảm bảo hiệu quả, chất
lượng trong nền kinh tế thị trường. Việc tìm hiểu nội dung các mô hình tập đoàn hóa
đại học công lập ở nước ngoài có thể giúp làm rõ quá trình chuyển dịch quản trị đại
học ở Việt Nam đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo. Bài viết sử dụng dữ liệu thuộc đề tài “Báo cáo Thường niên
Giáo dục 2018: Quản trị đại học ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi” (Đề tài cấp
Đại học Quốc gia, mã số QG.18.27) do chính nhóm tác giả thực hiện.
21 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 16/05/2022 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Ba mô hình tập đoàn hóa đại học công lập ở nước ngoài và chuyển dịch quản trị đại học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược đồng tiền nào từ ngân sách, từ nghiên cứu
khoa học và chuyển giao cộng và từ các nguồn hợp pháp khác. Một trường đại học
khác2 có tổng thu năm học 2017-2018 đạt trên 622 tỉ đồng, trong đó thu từ ngân sách chiếm
trên 26%, từ học phí trên 61%, từ khoa học và chuyển giao công nghệ gần 5% và từ các
nguồn hợp pháp khác 8%. Tất cả các trường đại học công lập bao gồm 23 trường đại học thực
hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP, chiếm 13.5%
trong tổng số 170 trường đại học công lập và các trường còn lại thực hiện quyền tự chủ theo
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP đều có tổng thu chủ yếu dựa vào nguồn thu từ học phí và lệ
phí. Điều này chứng tỏ rằng mặc dù Việt Nam bắt đầu thực hiện cơ chế tự chủ và tự chịu
trách nhiệm từ năm 2006, nhưng đến nay xét về cấu trúc tài chính, chỉ một bộ phận nhỏ các
trường đại học công lập bắt đầu chuyển dịch theo hướng tập đoàn hóa. Bởi vì tập đoàn hóa
đại học công lập đòi hỏi các trường đại học công lập phải tăng tỉ trọng các nguồn thu từ khoa
1 https://www.uef.edu.vn/newsimg/ptchc/bao-cao-3-cong-khai/BC_3_cong_khai_mau_24.pdf.
2 https://www.ctu.edu.vn/images/upload/TT36/Bieu-21-Cong-khai-ti-chnh_NH-2017-2018_DHCT.
pdf.
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành144
học và chuyển giao công nghệ và các nguồn thu hợp pháp khác, chứ không phải chủ yếu tăng
nguồn thu từ học phí và lệ phí như các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay. Như
vậy, về đổi mới tài chính và ngân sách nhà nước, tập đoàn hóa mới chỉ bắt đầu được triển
khai nên khó tránh khỏi khó khăn, vướng mắc.
b) Tổ chức kinh tế trong trường đại học: một phần tất yếu của tập đoàn hóa
Theo Điều lệ trường đại học (2003), “doanh nghiệp” là một trong mười loại tổ
chức kinh tế trong cơ cấu tổ chức của trường đại học, nhưng trong Điều lệ trường
đại học (2010), Luật Giáo dục đại học (2012) và Điều lệ trường đại học (2014) không
nói đến “doanh nghiệp” chung chung, mà nói rõ là tổ chức hoặc cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ. Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 quy định cơ cấu tổ chức của
trường đại học bao gồm năm loại tổ chức đứng đầu là (i) Hội đồng trường, tiếp đến
là (ii) hiệu trưởng, phó hiệu trưởng tạo thành ban giám hiệu, (iii) hội đồng khoa học
và đào tạo, hội đồng khác (iv) Khoa, phòng chức năng, thư viện, tổ chức khoa học
và công nghệ, tổ chức phục vụ đào tạo khác và (v) trường, phân hiệu, viện nghiên
cứu, cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh và đơn vị khác (nếu có) theo nhu
cầu phát triển của trường đại học (Điều 14). Như vậy, cơ cấu tổ chức của trường đại
học đã được tinh giản theo hướng tập đoàn hóa từ cơ cấu gồm 10 loại tổ chức đặc
trưng cho kiểu tổ chức hàn lâm khoa học và tổ chức chính trị - nhà nước như quy
định trong Điều lệ trường đại học năm 2003 sang cơ cấu gồm 5 loại tổ chức trong đó
nổi bật loại “cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh” theo Luật Giáo dục đại
học sửa đổi năm 2018.
c) Thành lập hội đồng trường: mới tập đoàn hóa được trên một phần ba
Hội đồng trường là cơ quan quản trị đại học nhưng không xuất hiện cùng
với trường đại học mà dần dần được thành lập theo quy định pháp luật và điều lệ
trường đại học. Luật Giáo dục năm 1998 dành Điều 55 quy định về “Quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của trường cao đẳng, trường đại học” nhưng chưa nói đến
“quản trị”, chưa nói đến “hội đồng trường”. Luật Giáo dục đại học (2012) quy định
hội đồng trường là tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của nhà trường (Điều
16). Điều lệ trường đại học 2014 và Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP về đổi mới cơ chế
hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 không
đưa ra định nghĩa về hội đồng trường. Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 quy
định hội đồng trường là tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu
và các bên có lợi ích liên quan. Định nghĩa này không chỉ mở rộng thành phần và
cấu trúc của hội đồng trường, mà nhấn mạnh đến quan hệ lợi ích đặc trưng cho xã
hội hiện đại vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Ngày trước áp lực của cạnh
tranh, bất kỳ một tổ chức nào bao gồm cả trường đại học công lập muốn hoạt động
và phát triển được cũng đều phải tính đến quan hệ lợi ích của các bên liên quan đảm
Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0 145
bảo những nguyên tắc như công bằng, cùng có lợi và bền vững. Ở Việt Nam hiện
nay mới có trên một phần ba trong tổng số 170 trường đại học công lập thành lập hội
đồng trường. Điều này có nghĩa là tập đoàn hóa các trường đại học công lập ở Việt
Nam mới đi được một phần ba quãng đường tập đoàn hóa.
d) Sự tham gia của chuyên gia bên ngoài với mức tối thiểu 30%
Trên thế giới sự chuyển dịch đại học theo hướng tập đoàn hóa luôn gắn liền với
sự tham gia của chuyên gia bên ngoài với số lượng rất đáng kể có khi lên tới một nửa
trong tổng số thành viên của tổ chức quản trị đại học. Ở Việt Nam, Luật Giáo dục
đại học và Điều lệ trường đại học không quy định sự tham gia của “chuyên gia bên
ngoài”, mà từng bước quy định hội đồng trường có sự tham gia của “cán bộ quản
lý giáo dục có uy tín ngoài trường” nhưng không rõ số lượng năm 2003 đến “thành
viên ngoài trường đại học” với số lượng tối thiểu là 30% tổng số thành viên hội đồng
trường năm 2008. Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định rõ hội đồng trường có
“đại diện cơ quan chủ quản cơ sở giáo dục đại học” và quy định chung chung là
có một số thành viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ, sản
xuất, kinh doanh. Điều lệ năm 2014 quy định thành phần và số lượng “thành viên
bên ngoài” tham gia hội đồng trường, cụ thể là thành viên bên ngoài gồm những
người đang hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ, sản xuất, kinh
doanh có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhà trường với số lượng chiếm
không dưới 20% tổng số thành viên của hội đồng trường. Năm 2018, “thành viên
ngoài trường đại học” được Luật Giáo dục đại học (2018) quy định là chiếm tỉ lệ tối
thiểu là 30% trong tổng số thành viên tối thiểu 15 người của hội đồng trường; thành
viên ngoài trường gồm đại diện của cơ quan quản lý có thẩm quyền, đại diện của
cộng đồng xã hội do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu của trường đại học bầu
bao gồm nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà khoa học, doanh
nhân, cựu sinh viên, đại diện đơn vị sử dụng lao động. Nếu số thành viên bên ngoài
đạt được mức tối thiểu 30% này thì đó mới chỉ là sự tham gia trên danh nghĩa bởi vì
trừ chủ tịch hội đồng trường là thành viên cơ hữu của trường, số các thành viên còn
lại có thể tham gia kiêm nhiệm với công việc chính là “hội, họp”. Do vậy, có thể nói
với tỉ lệ tối thiểu của chuyên gia bên ngoài tham gia có tính chất hình thức, thủ tục,
“theo quy định” như vậy thì tập đoàn hóa đại học công lập ở Việt Nam có lẽ mới chỉ
ở giai đoạn bắt đầu.
e) Chuyển dịch mối quan hệ của trường đại học với các cơ quan quản lý
Năm 2014, Điều lệ (2014) quy định Cơ quan trực tiếp quản lý trường ra Quyết
định thành lập hội đồng trường và bổ nhiệm Chủ tịch hội đồng trường trên cơ sở
quyết nghị của hội đồng trường. Hội đồng trường định kỳ hàng năm hoặc đột xuất
báo cáo, giải trình với cơ quan trực tiếp quản lý trường, cơ quan quản lý nhà nước
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành146
về các điều kiện đảm bảo chất lượng, các kết quả hoạt động, việc thực hiện các cam
kết và tài chính của trường.
Năm 2018, theo Luật Giáo dục sửa đổi (2018), trường đại học có các cơ quan cấp
trên bao gồm Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan ngang bộ, cơ quan chủ quản. Ví dụ: Luật
này quy định “Các trường đại học xây dựng quy chế về tổ chức và hoạt động của
trường trình cơ quan chủ quản phê duyệt”, “Hội đồng trường chịu trách nhiệm
trước pháp luật, trước cơ quan quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan về các
quyết định của hội đồng trường”. Chính phủ quy định chi tiết về quy trình, thủ tục
thành lập, công nhận hội đồng trường; việc công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm chủ
tịch hội đồng trường, bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên khác của hội đồng trường.
Như vậy, về mối quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên, trường đại học chịu sự
quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và
đào tạo và các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở trung ương và địa phương. Mặc dù
đã xuất hiện khả năng không còn quan hệ chủ quản, nhưng các trường đại học công
lập vẫn chủ yếu nằm trong mối quan hệ quản lý theo trật tự thứ bậc trên – dưới nặng
về cơ chế, “xin – cho”. Như vậy, trường đại học công lập khó có thể trở thành một
thực thể pháp nhân độc lập chịu trách nhiệm trước pháp luật và tự chủ thực hiện có
hiệu quả các hoạt động đáp ứng yêu cầu giáo dục đại học và nghiên cứu, phát triển
khoa học, công nghệ.
f) Tập đoàn hóa trong quản trị đại học cấp trường
Theo quy định pháp luật, hội đồng trường là tổ chức quản trị cao nhất trong
trường đại học. Trong khi đó, hiệu trưởng trường đại học được định nghĩa là người
chịu trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học theo
quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
Định nghĩa này không nói đến hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm thực hiện các
quyết định, quyết nghị của hội đồng trường. Mặc dù trong 6 nhóm nhiệm vụ và
quyền hạn của hiệu trưởng có quy định hiệu trưởng ba lần nói đến hội trường. Thứ
nhất, hiệu trưởng tổ chức thực hiện hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân
sự, tài chính, tài sản, hợp tác trong nước, quốc tế, hoạt động khác theo quy định của
pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học và cuối cùng là
theo “quyết định của hội đồng trường”. Thứ hai, hiệu trưởng hằng năm, báo cáo
trước hội đồng trường về kết quả thực hiện nhiệm vụ của hiệu trưởng và ban giám
hiệu. Thứ ba, hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước hội đồng trường
và các bên liên quan. Hiệu trưởng do hội đồng trường quyết định và được cơ quan
quản lý có thẩm quyền công nhận. Hiệu trưởng là một thành phần đương nhiên của
hội đồng trường cùng với ba thành phần khác là Bí thư cấp ủy, Chủ tịch công đoàn
Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0 147
và đại diện ban chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Như vậy, trong
quản trị đại học cấp trường ở Việt Nam vẫn chưa xác định rõ ai là người quản trị
đứng đầu, ai là người giúp việc về mặt quản trị hành chính, quản trị học thuật và
quản trị tài chính nhất là quản trị huy động các nguồn lực cho nhà trường. Tập đoàn
hóa đại học công lập đòi hỏi phải có quy định giúp trả lời rõ ràng những câu hỏi đại
loại như vậy về thành phần, cấu trúc của tổ chức quản trị đại học cấp trường. Về
mặt này, có lẽ tập đoàn hóa ở Việt Nam mới chỉ đang trong giai đoạn thí điểm, “thử
và sai” cần được tiếp tục đổi mới ngay cả trong quan niệm về sử dụng từ ngữ “tập
đoàn” và “tập đoàn hóa”. Mặc dù trong thực tế ở Việt Nam những năm gần đây đã
xuất hiện và phát triển một số tập đoàn giáo dục sở hữu các trường học từ trường
mầm non đến trường đại học.
Kết luận
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước bị cắt giảm đối với giáo dục đại học, quản
trị đại học theo hướng tập đoàn hóa là một lựa chọn ưu tiên trên các cấp độ quốc
tế, quốc gia và thể chế hay tổ chức của cơ sở giáo dục đại học. Các nghiên cứu về
đổi mới giáo dục đại học ở châu Âu, châu Á và nhiều nơi khác cho thấy quản trị đại
học khu vực công lập và tư thục đều có thể chuyển dịch theo hướng tập đoàn hóa.
Điều cơ bản và quan trọng của quá trình chuyển dịch theo hướng tập đoàn hóa là
trường đại học không bị biến mất, không bị biến thành tập đoàn kinh tế, tập đoàn
kinh doanh và quản trị đại học không phải là quản trị kinh doanh, không phải quản
trị kinh tế. Mặc dù nhiều bộ phận, nhiều cấu trúc và nhiều quá trình giáo dục đại học
có thể bị “tập đoàn hóa” theo nghĩa là chỉ tập trung vào mục tiêu nâng cao hiệu quả
có thể lượng hóa bằng tiền. Bởi vì hiệu quả, thu nhập, lợi nhuận vẫn không phải là
mục tiêu cuối cùng của trường đại học và quản trị đại học. Mà tất cả những chuyển
dịch, những thay đổi theo hướng tập đoàn hóa của quản trị đại học đều nhằm mục
tiêu cuối cùng là nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh của trường đại học trong
môi trường nội địa và quốc tế đang liên tục biến đổi.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được tài trợ bỏi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số
QG.18.27.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chang-Da Wan. The History of University Autonomy in Malaysia. Policy
IDEAS № 40. May 2017.
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành148
2. file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20Bao%20cao%20giao%20duc%20
thuong%20nien/Corporation%20of%20Univ/The-History-of-University-
Autonomy-in-Malaysia-.pdf.
3. Molly N. N. Lee. Corporatization and Privatization of Malaysian Higher
Education. International Higher Educaion. 1998. file:///C:/Users/Admin/
Downloads/6419-Article%20Text-12302-1-10-20150325%20(1).pdf.
4. Ainun Hj. Abd. Majid & Mohammad Adam Bakar. Corporatisation of Malaysian
Public Universites: a Case Study. 2017, file:///C:/Users/Admin/Downloads/957-
Article%20Text-2202-1-10-20171206%20(2).pdf.
5. Abd Rahman Ahmad, Alan Farley, Ng Kim-Soon. “Funding Reforms in
Malaysian Public Universities: Transitions towards Competitive Funding”.
Australian Journal of Basic and Applied Sciences, 7(10): 553-561, 2013.
6. Jun Oba (2004). Incorporation of National Universities in Japan – Reform towards
the enhancement of autonomy in search of excellence. In RIHE. Organization
Reforms and University Governance: Autonomy and Accountability. 2004
7. file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20Bao%20cao%20giao%20duc%20
thuong %20nien/Corporation%20of%20Univ/incorporation2003.pdf;
8. Jun Oba (2006). Incorporation of National Universities in Japan and its Impact
upon Institutional Governance.
9. file:///C:/Users/Admin/Downloads /2019%20Bao%20cao%20giao%20duc%20
thuong%20nien/Corporation%20of% 20Univ/ incorporation2006.pdf
10. Kiyoshi Yamamoto (2004). Corporatization of National Universities in Japan:
An analysis of the impact on governance and finance.
ac.jp/crump/resource/crump_wp_no3.pdf.
11. Luật Ngân sách Nhà nước 2002, luật số 01/2002/QH11; Luật Ngân sách Nhà
nước 2015, luật số 83/2015/QH13.
12. https://www.uef.edu.vn/newsimg/ptchc/bao-cao-3-cong-khai/BC_3_cong_
khai_mau_24.pdf.
13. https://www.ctu.edu.vn/images/upload/TT36/Bieu-21-Cong-khai-ti-chnh_
NH-2017-2018_DHCT.pdf.
Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0 149
THREE CORPORATISATION MODELS OF OVERSEASPUBLIC UNIVERSITIES
AND TRANSITION OF UNIVERSITY GOVERNANCE IN VIETNAM
Abstract: In Vietnam, education corporations including universities newly
emerge in private sector and corporatisation of public universities has not been
institutionalized in the innovation policy of higher education. Meanwhile, in the
world, some countries such as Malaysia, Japan and Canada have conducted
corporatisation in higher education,turned public universities into independent
legal entities which are independent of state management agencies, taking
legal obligation and autonomus operationto ensure efficiency and quality in the
market economy. Studying the content of corporatisation models of overseas
public universitiesmay help to clarify transitionprocess of University Governance
in Vietnamto meet the objectives, requirements and obligations of fundamental
and comprehensive innovation in education. The article uses survey data from
the topic of Hanoi National University: “Annual Education Report 2018: University
Administration in Vietnam intransition process” (National University topic, code
No. QG.18.27), by the group author of this article.
Keywords: Models, Corporatisation, Public university corporation, Governance,
University Governance
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ba_mo_hinh_tap_doan_hoa_dai_hoc_cong_lap_o_nuoc_ngoai_va_chu.pdf