An toàn khu (ATK) trung ương trong kháng chiến chống thực Pháp (1945 - 1954)

Khởi nghĩa Trương Định có căn cứ Tân An - Gò Công.

Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông Phạm Bành và

Đinh Công Tráng xây dựng căn cứ phòng thủ ởBa Đình. Nguyên

Thiện Thuật xây dựng căn cứ ở Bãi Sậy. Phan Đình Phùng xây

dụng khu cần cứ trong vùng núi Hương Sơn, đặt bản doanh trên

dãy núi Vụ Quang, thuộc khu Ngàn Trươt (50.209).

Đặc biệt, với việc thành lập căn cứ ởrừng núi vùng Yên Thế

bao la đểtiến hành chiến tranh du kích, cuộc khởi nghĩa do

Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã kéo dài trong gần 30 năm, gây cho

thực dân Pháp nhiều tổn thất và nỗi kinh hoàng.

pdf107 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu An toàn khu (ATK) trung ương trong kháng chiến chống thực Pháp (1945 - 1954), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xe ô tô, diệt 10 tên địch. Đêm 29/1/1948, một phân đội của tiểu đoàn 45 phối hợp với một đại đội của tiểu đoàn 55, đánh đồn Bành Trạch, buộc địch phải rút bỏ vị trí này... Đêm 26/2/1948, một đại đội thuộc tiểu đoàn 45 phối hợp với đại đội 77 và trung đội du kích tập trung huyện Ngân Sơn tiến công đồn Bằng Khẩu. Sau hai lần bị ta tấn công, địch điều thêm quân về tăng cường cho cứ điểm này, củng cố hầm hào, công sự, xây dựng Bằng Khẩu thành một cứ điểm lớn. Đêm 12/3/1948, tiểu đoàn 45 có lực lượng pháo binh yểm trợ, mở cuộc tập kích Phủ Thông, diệt 30 tên địch, làm bị thương 40 tên nhá hỏng nặng hệ thống công sự và doanh trại địch. Cùng thời gian trên, đại đội Ba Bể phối hợp với một phân đội của Trung đoàn 72 tấn công đồn Nà Phác, diệt gần 10 tên địch. Quân địch từ thị xã Bắc Cạn lên tiếp viện nhưng bị thột phân đội của tiểu đoàn 55 (thuộc Trung đoàn 72) và trung đội du kích tập trung huyện Bạch Thông phục kích ở ki lô mét 8 phía bắc thị xã, buộc phải quay về. Ngày 25/7/1948, chấp hành chỉ thị của Bộ Tồng chỉ huy, tiểu đoàn 11thuộc Trung đoàn 308 phối hợp với tiểu đoàn 55 (Trung đoàn 72) và đại đội Ba Bể mở cuộc tập kích vào đồn Phủ Thông. Tuy không chiếm được cứ điểm, nhưng ta đã tiêu diệt được đại bộ phận quân địch, trong đó có tên đồn trưởng và đồn phó, thu nhiều vũ khí. "Trận tập kích đồn Phủ Thông lần này giáng một đòn mạnh vào mắt xích quan trọng của địch tên tuyến đường số 3. Cùng với các trận đánh khác, trận Phủ Thông phá vỡ âm mưu củng cố mũi dùi cắm vào lòng Việt Bắc của thực dân Pháp". Sau trận Phủ Thông ngày 25/7/1948; quân địch ở các cứ điểm không dám hung hăng càn quét ra các vùng xung quanh. Trong khi đó, công tác binh vận được các cấp bộ Đảng và chính quyền địa phương tích cực triển khai. Nhân dân các xã ven trục đường giao thông được hướng dẫn cách đón hàng binh. Nhưng do thiếu kinh nghiệm tổ chức, nên công tác địch vận chưa đạt hiện quả cao. Đầu năm 1949, Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng nhằm mục đích: làm tê liệt đường số 3, số 4 và triệt nguồn tiếp tế của địch trên cả chiến trường; tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, làm tan rã nguỵ binh buộc địch phải rút khỏi Bắc Cạn. Quán triệt mục đích của chiến dịch, Liên khu 1chủ trương mở chiến dịch "Đường số 3" nhằm giáng một đòn mạnh vào các vị trí địch trên dọc đường số 3, trọng điểm là thị xã Bắc Cạn. Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương và về cơ bản hoàn thành tù cuối tháng 7 năm 1949. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có: tiểu đoàn 55 (thuộc Trung đoàn 72) và ba đại đội độc lập (đại đội 81Bạch Thông, đại đội 77 Ngân Sơn và đại đội 39 Chợ Rã), đại đội Cẩm Lý (thuộc Trung đoàn Bắc Cạn), đại đội du kích Ba Bể, các trung đội du kích của các huyện Ngân Sơn, Na Rì, Chợ Đồn và lực lượng dân quân du kích các xã ven đường số 3. Các đơn vị triển khai hoạt động đánh địch theo kế hoạch đã định, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Việc tiếp tế cho các cứ điểm thị xã Bắc Cạn, Phủ Thông gặp nhiều khó khăn. Tình thế Của địch trên đường số 3 trở nên nguy ngập. Trong khi đó, đường số 4, sau khi bị quân ta đánh vào các cứ điểm và đoàn xe của địch từ Na Sầm về Nguyên Bình, đã không còn là hành lang an toàn. Do bị quân ta đánh mạnh và để tăng cường củng cố tuyến phòng thủ đường số 4, khoá chặt biên giới Việt - Trung, quân Pháp buộc phải rút khỏi thị xã Bắc Cạn (ngày 09/8/1949), Phủ Thông, Nà Phác (l n811949), Ngân Sơn và Bằng Khẩu ( 131811949). Việc địch phải rút khỏi địa phận Bắc Cạn - nơi mà chúng coi là "con dao găm kề sát gáy đối phương - đã góp phần loại trừ mối uy hiếp trực tiếp ở hướng đông bắc ATK. Trong khi đó, tại Tuyên Quang, quân và dân ta đã chiến đấu đánh bại cuộc hành quân Pômôn của thực dân Pháp, buộc chúng phải rút khỏi thị xã Tuyên Quang, giữ vững vùng tự do. Ngoài những hoạt động đánh địch nhằm củng cố và mở rộng vùng tự do Việt Băc, tạo thế vững chắc cho vùng ATK, quân và dân ta cùng với lực lượng công an địa phương còn tham gia tiễu phỉ ở vùng Chợ Rã. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, một số địa phương trong tỉnh Bắc Cạn và Thái Nguyên đã có lực lượng thổ phỉ hoạt động cướp bóc. Khi chiếm đóng một số vị trí trên đường số 4, thực dân Pháp đã trang bị vũ khí cho bọn phản động ở Nguyên Bình, Bảo Lạc (Cao Bằng) để quấy rối hậu phương của ta. Bọn phản động ở Nguyên Bình, Bảo Lạc đã câu kết, giúp đỡ một số tên phản động ở huyện Chợ Rã (Bắc Cạn) nổi lên hoạt động phỉ, chống phá chính quyền cách mạng, cướp bóc tài sản và giết hại nhân dân. Giữa tháng 10/1947, quân Pháp từ Phủ Thông lên chiếm huyện lỵ Chợ Rã và từ Cao Bằng theo đường số 3 xuống chiếm khu vực cầu Bành Trạch (Chợ Rã). Ngay sau đó, chúng cho lập đồn, trại; đồng thời mua chuộc, dụ dỗ và cấp súng đạn, tiền bạc, giúp đỡ bọn phản động nổi lên hoạt động phỉ ở vùng Chợ Rã, hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội và phá hoại công cuộc kháng chiến của ta. Từ các nhóm lẻ tẻ, hoạt động lén lút, lực lượng phỉ đã nhanh chóng phát triển và công khai lập cứ điểm, đóng quân kiểm soát từng khu vực riêng. Trước tình hình đó, đầu tháng 11năm 1947, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Bắc Cạn chỉ đạo chính quyền Chợ Rã lãnh đạo du kích và công an địa phương tích cực đề phòng và tiêu diệt phỉ. Tỉnh uỷ Bắc Cạn ra nghị quyết, coi: " tiễu phỉ là một trong những nhiệm vụ quân sự hàng đầu" của tỉnh và thành lập "đội vũ trang tuyên truyền", gồm 40 cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ vận động nhân dân tiêu diệt phỉ. Cuộc tấn công tiêu diệt phỉ chính thức bắt đầu từ ngày 02/1/1948, khi lực lượng phỉ tập kích vào trụ sở Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Chợ Rã. Từ đó, trong suốt mấy tháng liền, cuộc chiến đấu tiêu diệt phỉ vẫn tiếp diễn, nhưng ta chưa dẹp được những hoạt động cướp bóc của chúng. Cuối tháng 3/1949, lực lượng tiễu phỉ Bắc Cạn phối hợp với Cao Bằng mở cuộc tổng công kích vào bọn phỉ dọc vùng giáp giới hai tỉnh. Một số tên cầm đầu các toán phỉ bị tiêu diệt. Nhằm biến công tác tiễu phỉ thành phong trào của toàn dân, ngày 08/5/1949, Tỉnh uỷ Bắc Cạn chủ trương xây dựng làng, bản chiến đấu tại những nơi có phỉ hoạt động. Thực hiện chủ trương này, đồng bào các dân tộc xã Giáo Hiệu, Nghiên Loan, Văn Y, Bằng Thành... trước đây sống rải rác, phân tán, nay quần tụ lại thành bản, làng. Trong các bản, làng, lực lượng dân quân du kích được tổ chức, có trang bị vũ khí và tăng cường canh gác, bảo vệ. Các đội võ trang tuyên truyền, vận động các gia đình có người theo phỉ quay trở về. Nhờ đổ, nhiều toán phỉ tan rã; nhiều tên đã ra đấu thú và được khoan hồng. Đến cuối tháng 11/1949, công tác tiễu phỉ căn bản hoàn thành. Thắng lợi trong công tác tiễu phỉ góp phần làm thất bại một bước âm mưu của thực dân Pháp hòng phía hoại hậu phương của ta. Mối đe doạ từ xa đối với ATK vì thế cũng được đẩy lùi. Bước vào năm 1950, trước những chuyển biến quan trọng của tình hình thế giới, trong nước và sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào cuộc chiến tranh Đông Dương, để đưa cuộc kháng chiến phát triển sang giai đoạn mới, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới thu - đông 1950. Chiến dịch được mở trên hướng Cao Bằng - Lạng Sơn nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng biên giới, mở đường thông thương với quốc tế, củng cố và mờ rộng căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 2/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Mình ra huấn thị, nêu rõ: "Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng, chúng ta quyết đánh thắng trận này. Để thắng trận này, các chiến sĩ ở mát trận ấy phải kiên quyết, dũng câm trăm phần trăm, các chiến sĩ các khu, các mặt trận khác phải ra sức thi đua giết giặc lập công để tiêu diệt địch, kiềm chế địch, không cho chúng tiếp viện mặt trận Cao - Bắc - Lạng" ( 134.438). Quân và dân Việt Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được trao, tiêu diệt và bắt khoáng 8300 tên địch, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương liệu chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập; xoá sạch liên khu biên giới Đông Bắc của địch. Đồng thời, quân và dân ta còn đập tan cuộc hành quân "Phốc" (chó biển), đuổi địch ra khỏi thị xã Thái Nguyên, bảo vệ vững chắc cửa ngõ phía nam ATK. Với chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, căn cứ địa Việt Bắc dã thoát khỏi tình trạng bị bao vây, phong toả cà trong lẫn ngoài. Quân đội ta đã giành được quyền chủ đóng vè chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ). Thế đứng của ATK do đó càng được xác lập vững chắc. phối hợp với Việt Bắc, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Mình và chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, khắp cả nước, quân và dân ta đồng loạt tiến công địch. Tại liên khu III, Đại đoàn 304 đánh vòng Phát Diệm, tiêu diệt vị trí Chính Đại, buộc địch phải rút 18 vị trí khác, phá khối ngụy quân, ngụy quyền ở vùng Yên Mó, Nga Sơn. Sau đó, từ 21119 đến 8/10/1950, Đại đoàn chuyển ra hoạt động ở Hà Nam, Hà Đông, tiêu diệt vị trí: Hồi Trung và đánh quân tiếp viện (60.) - 59) Ở Bình Trị Thiên, quân ta mở chiến dịch Phan Đình Phùng, đột nhập thị xã Quàng Trị, đánh mìn trên đường Huế - Đà Năng. Liên khu V mở chiến dịch Hoàng Diệu ờ sắc Quảng Nam. Tại Nam Bộ, khí thế đánh địch sôi nổi trên toàn miền. Hoạt động mạnh mẽ và đều khắp, quân và dân Nam Bộ không những thực hiện thắng lợi kế hoạch tác chiến của miền, mà còn giam chân địch, không cho chúng rảnh tay tiếp viện cho chiến trường Bắc Bộ. Từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, trên chiến trường chính, quân đội ta liên tiếp mở các chiến dịch: Trung du, Đường số 18, Hà - Nam - Ninh,, Hoà Bình, Tây Bắc... Sau những chiến dịch tiến công ấy, quyền chủ động về chiến lược của quân ta càng được củng cố vững chắc trên chiến trường Bắc Bộ. Mối đe doạ bị kẻ thù tấn công vào Việt Bắc nói chung và ATK nói riêng bị đẩy lùi... CHƯƠNG III ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA AN TOÀN KHU TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC 1. Đặc diễm của an toàn khu Trung ương An toàn khu Trung ương được đây dựng toàn diện, bao gồm các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự và văn hoá, giáo dục Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược thực chất là một cuộc chiến tranh vừa có tính chất giải phóng dân tộc, vừa có tính chất bảo vệ Tổ quốc trong đó giải phóng dân tộc là một yêu cầu bức thiết nhất. Trong điều kiện đó, ATK không chỉ là chỗ đứng chân của cơ quan đầu não như trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám, mà còn là hậu phương của kháng chiến. Hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên có tác dụng quyết định thắng lợi của chiến tranh. Lê nin đã từng chỉ rõ: "Muốn liên hành chiến tranh một Cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc. Dù là quân đội giỏi nhất, dù là những người tận tụy nhất với cách mạng, cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nay, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế và giáo dục đầy đủ. ..(58.359) Do tầm quan trọng đặc biệt của hậu phương trong chiến tranh, ATK Trung ương được xây dựng toàn diện, gồm các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, giáo dục... Điều này không phải chỉ do sự đòi hỏi của vấn đề xây dựng hậu phương kháng chiến, mà bản thân ATK Trung ương lúc đó có đủ điều kiện hơn các địa phương để được xây dựng toàn diện. Đây chính là điểm khác nhau giữa ATK Trung ương và ATK địa phương. Về chính trị, ATK phải chú trọng xây dựng và phát triển cơ sở Đảng ở địa phương vững mạnh về mọi mặt; củng cố và từng bước kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp ở địa phương, tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các cơ quan, đơn vị với nhân dân địa phương, nghiêm chỉnh thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ địa phương, nhất là cán bộ thuốc dân tộc thiểu số. Xây dựng, củng cố ATK về chính trị là nhiệm vụ hàng đầu, là một nội dung quan trọng bậc nhất, vì sự vững chắc của ATK trước hết dựa vào sự nhất trí về chính trị và tinh thần của quần chúng nhân dân. Về kinh tế, phải ra sức đẩy mạnh sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, phát triển thủ công nghiệp và công nghiệp nhỏ. mở mang thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải một cách hợp lý để cải thiện đời sống nhân dân trong vùng và bảo đảm mọi nhu cầu cho công tác bảo vệ ATK. Đi đôi với phát triển sản xuất, phải kiên quyết thực hành tiết kiệm, thực hiện khẩu hiệu tăng thu, giảm chi", "tinh binh, giảm chính" để thiết thực tăng cường lực lượng chiến đấu, lực lượng sản xuất và giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Về văn hoá - xã hội, phải quét sạch những tàn tích của văn hoá nô dịch và những tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại, xây dựng nền văn hoá mới theo phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng, thực hiện nếp sống mới, phát triển giáo dục không những ở bậc phổ thông, mà cả đại học, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân. Về quân sự, phải thực hiện võ trang toàn dân, ra sức xây dựng lực lượng võ trang nhân dân, phát triển rộng rãi dân quân du kích, đồng thời xây dựng bộ đội địa phương, thực hiện nếp sống quân sự hoá, không ngừng giáo dục ý thức phòng gian, bảo mật trong nhân dân, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc càn quét, tấn công của địch. Chỉ có xây dựng toàn diện, ATK mới có thể tồn tại vững chắc, toả tác dụng ra bên ngoài và mới trở thành hậu phương của kháng chiến. Khác với thòi kỳ Cách mạng Tháng Tám, ATK trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp không tồn tại độc lập, mà là một vùng quan trọng nhất nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc và được bố trí theo một hệ thống nhiều tầng, nhiều lớp. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra theo hình thái chiến tranh cài răng lược. Vùng tự do và vùng địch kiểm soát xen kẽ nhau. Trong điều kiện đó, ATK không thể tồn tại một cách độc lập. Thực tế đã cho thấy rõ, ATK Trung ương ở Việt Bắc được phân chia thành hai khu vực: khu vực trung tâm là nơi đặt các cơ quan đầu não kháng chiến, khu vực ngoại vi là nơi đặt các cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương. Giữa khu vực ngoại vi ATK Trung ương và vùng địch chiếm là vùng tự do rộng lớn, mà ở đó "có các căn cứ, hậu phương nhỏ của các khu, tỉnh, huyên, xã được tổ chức độc lập hoặc liên hoàn với nhau tuỳ theo địa thế từng nơi".( 126. 118). Nếu như trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám, ATK của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc Kỳ được đặt tại hai khu vực ở Bắc Bộ (xem chú thích ở cuối Phần phụ lục), thì trong kháng chiến chống Pháp, ATK ở Việt Bắc là nơi tập trung toàn bộ cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước, Mặt trận và quân đội...Chính điều này làm cho ATK Trung ương ở Việt Bắc phát huy vai trò của nó không phải chỉ trong khu vực mà còn đối với toàn quốc. Vì là nơi có đầy đủ các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và quân đội, ATK Trung ương ở Việt Bắc luôn luôn là một mục tiêu địch thường xuyên địch tìm mọi cách phá hoại. Tất cả mọi cuộc chiến tranh xâm lược đều được thực hiện theo tư tưởng chiến lược đánh nhanh thắng nhanh. Cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Ngay từ buổi đầu chiến tranh, chúng luôn ớm cách đánh úp, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến. Điều này đã thể hiện rõ qua cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc trong thu - đông 1947. Cuộc tấn công hoàn toàn thất bại, thực dân Pháp bị thiệt hại nặng nề. Từ đó trở đi, trên thực tế đã không diễn ra cuộc tấn công chiến lược lần hai; nhưng điều ấy không có nghĩa là thực dân Pháp từ bỏ mưu đổ đánh vào căn cứ địa Việt Bắc. Chúng vẫn thường xuyên tung gián điệp thâm nhập vào Việt Bắc để do thám tình hình, chuẩn bị cho cuộc tấn công khu căn cứ khi có điều kiện. 2. Vai trò lịch sử của An toàn khu fl'rung trong - ATK Tung ươ'jg là địa bàn cư trú và bảo vệ vững chắc trung tâm lãnh đạo sư nghiệp kháng chiến, kiến quốc của cả nước : Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1945 - 1954), trên phạm vi cả nước, các địa phương đều có những khu an toàn để đặt cơ quan lãnh đạo và che giấu lực lượng. Song, những khu an toàn ấy hoàn toàn mang tính chất địa phương, thuộc Phạm vi của một khu, hay một tỉnh, một huyện. ATK do Trung ương xây dựng trong căn cứ địa Việt Bắc là khu an toàn lớn nhất và quan trọng nhất, vì đó là căn cứ của các cơ quan đầu não kháng chiến. Chính kê thù cũng nhận thấy: "địch đã tổ chức trong khu tứ giác Chợ Chu - Tuyền Quang - Chiêm hoá - Chợ Rã một" căn cứ địa, từ chỗ ấy chúng chỉ huy diều khiến cuộc kháng chiến" (l 7.77). Bởi vậy, khi mở chiến dịch mùa thu ở Bắc Kì, thực dân Pháp quyết " phá tan cái kim tự tháp đối nghịch, bằng cách đập vào đầu não những cơ quan quân chính điều khiển và tổ chức hành động Việt Minh trên khắp Đông Dương..." ( 117.77) Với cuộc tấn công lên Việt Bắc thu - đông 1947, thực dân Pháp đã hy vọng "sẽ làm tan rã bộ máy quân sự,chính trị của Việt Minh"; hác động Nhà nước của Việt Minh... không còn nữa, do sự tan vỡ, rối loạn của hệ thống điều khiển và do sự bất ổn định của các cơ quan chính thức hoặc bí mật đã bị phân tán" (45.88). Từ sau chiến dịch Việt Bắc thu - Đông 1947, khu 1và khu X được Trung ương giao nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa Việt Bắc thực sự vững chắc. Nhưng sau đó, Trung ương nhận thấy vấn đề xây dựng căn cứ địa Việt Bắc nói chung và ATK nói riêng là một công việc rất quan trọng, không thể giao cho các khu. Ngày 19/4/1949, Đảng đoàn chính phủ họp do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ tri (có đại diện của khu 1và khu X tham dự). Hột nghị quyết định: Lấy sáu tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang làm căn cứ địa. Thành lập Ban căn cứ địa, lấy tên "Đội củng cố số 7", gồm 5 người do đồng chí Trần Kiên phụ trách. Ban này có nhiệm vụ giúp Trung ương xây dựng kế hoạch và kiểm tra dồn dốc việc xây dựng căn cứ địa Việt Bắc nói chung và ATK nói riêng. Trong phạm vi rộng lớn của 6 tỉnh ấy, Trung ương nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng những khu vực an toàn nhất, thuận tiện nhất (10.2). Ngày 23/9/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh (số 110/SL) về việc thành lập Ban căn cứ địa Việt Bắc (78.358). Tuy năm trên địa phận một số tỉnh miền núi trong căn cứ địa Việt Bắc, nhưng sự lổn lại và hoạt động của ATK Trung ương có tầm vóc quốc gia. Phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của ATK Trung ương không phải chỉ giới hạn trong phạm vi không gian tồn tại của ni), mà rộng khắp cả nước. Thực vậy, tại ATK Trung ương, có cả một bộ máy Chính phủ gồm đủ các bộ, các ngành, sống và làm việc trong những "căn nhà lá tồi tàn với những Bộ trưởng ba lô trên lưng, hồ sơ đựng trong xà cột..."(46.290). Nhưng chính trong "những ngôi nhà lá với những ông Bộ trưởng như vậy, những quyết định quan trọng của Nhà nước Việt Nam đã ra đời và đã chôn vùi số phận quân đội viễn chinh" (46.290). Mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến, việc giao thông đi lại khó khăn, nhưng hàng năm Chính phủ đều tổ chúc hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc. Ngoài cuộc họp năm 1947 tại thị xã Sơn Tây đang tiêu thổ kháng chiến, từ năm 1948 trở đi hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc hàng năm đều được tổ chức tại ATK Trung ương ở Việt Bắc. Tại các hội nghị ấy:'lcác Bộ trình bày chủ trương, chính sách của Chính phủ về ngoại giao, quân sự, kinh tế, tổ chức chính quyền...bàn bạc để thực hiện các chủ trương như pháp lệnh động viên sức người, sức của chăm lo công tác an ninh, tình báo. Chính phủ cùng bạn với các khu, các tỉnh chấn chỉnh bộ máy chính quyền, sửa đổi lề lối làm việc, giải quyết mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương" (46.294). Nhằm khắc phục tình trạng yếu kém của cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn và trung đoần đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng trang, cũng vào năm 1947, từ ATK, Bộ Quốc phòng quyết định mở lớp bổ túc cho cán bộ cấp tiểu đoàn trưởng và trung đoàn trưởng về phương pháp tồ chức bộ đội, vồ đường lối quân sự của Đảng. Lớp học này khai giảng từ đầu tháng 8/1947 tại La Bằng (Đại Từ), có 8J học viên. Từ ngày đầu thành lập đến tháng 2/1948, lớp học này tổ chức được 3 khoá, bồi dưỡng được 143 học viên (46.362). Những cán bộ quân đội sau khi bổ túc trình độ, được phân công làm nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị trên các chiến trường. Ngày 12/3/1948 tại ATK, Bộ Quốc phòng ra nghị định (số 88.BCH) thành lập Trường Quân chính trong cấp. Khoá học đầu tiên có 110 học viên. Tính đến tháng 5/1950, nhà trường liên tục mở được 5 khoá học, với 675 học viên, kịp thời bổ sung nguồn cán bộ chỉ huy cho các đơn vị trên khắp các chiến trường toàn quốc. Đó là cái vốn rất quý báu, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và chiến đấu của quân đội ta trong những năm kháng chiến chống Pháp. Từ ATK Việt Bắc, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh thường xuyên nhận được tin tức về tình hình kháng chiến, kiến quốc ở các địa phương và có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo kịp thời, đẩy mạnh mọi mặt ở các khu, các tỉnh. Ngay từ cuối năm 1948, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở Nam Bộ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng trao nhiệm vụ cho Bộ Tổng chỉ huy thảo một huấn lệnh gửi Nam Bộ. Nhờ Có Sự Chỉ đạo kịp thời Của Trung ương Đảng, phong trào kháng chiến ở Nam Bộ sau chặng đường vô cùng gian nan trong những ngày đầu, tiếp tục đứng vững và phát triển. Các cuộc đấu tranh chính trị diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ trong đô thị, tập hợp đông đảo các tầng lớp tham gia. Lực lượng vũ trang đẩy mạnh hoạt động chống càn, phá hoại đường giao thông, xây dựng căn cứ. Những đơn vị vũ trang phân tán trong dân để đánh du kích, bắt đầu được tổ chức thành một số tiểu đoàn mạnh. Cùng thời gian trên, miền Nam Trung Bộ cũng nhận được bản huấn lệnh của Bộ Tổng chỉ huy từ ATK ở Việt Bắc chuyển vào. Bản huấn lệnh để giúp cho Nam Trung Bộ thành công bước đầu trong việc bám đất, giành dân ở Tây Nguyên, từng bước làm thất bại những chính sách lớn của thực dân Pháp ở vùng này, tạo cơ sở cho đòn tiến công của chiến lược của quân đội ta trên cao nguyên sau này. Tại ATK Việt Bắt, Hộ Tổng chỉ huy ngày đêm nghiên cứu các hình thức tác chiến, định ra phương châm hoạt động cụ thề thích hợp cho từng chiến trường. Cũng chính từ ATK, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh đã thông qua phương án tác chiến của các chiến dịch lớn tiêu biểu là chiến dịch Biên giới và cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ ATK ở Việt Bắc, Trung ương Đảng và Chính phủ còn đề ra những chủ trương và biện pháp chỉ đạo hoạt động kinh tế, tài chính, văn hoá.. . trong các địa phương. Kắp nơi trong vùng tự do, các uỷ ban tự túc, tự cấp về ăn, mặc được thành lập. Các đơn vị bộ đội, cơ quan, xí nghiệp, trường học... đều giành thời gian tăng gia sản xuất để tự túc lương thực, vừa giải quyết một phần nhu cầu của mình vừa giảm bớt phần đóng góp của nhân dân. Nghành công nghiệp quốc phòng được đặc biệt quan tâm phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Những thành tựu nghiên cứu về sản xuất vũ khí, đạn dược, của nha nghiên cứu kỹ thuật (cục quân giới) không chỉ được đem áp dụng thành công trong các xưởng quân giới ở ATK Việt Bắc, mà còn gửi đến các khu các tỉnh. Chính nhờ có bản thiết kể từ ATK Trung ương ở Việt Bắc chuyển vào mà trong năm 1949, liên khu V, với 21xưởng quân giới có khả năng sản xuất được một số vũ khí có yêu cầu kỹ thuật phức tạp như Badoka 60, súng phóng lựu 50,8 mm, súng phóng bom và SKZ 60 (46. 136). Trong hoàn cảnh chiến trường bị chia cắt, giao thông liên lạc khó khăn, việc giữ liên lạc thường xuyên giữa Trung ương ở ATK Việt Bắc với các địa. phương trong toàn quốc trở thành một yêu cầu hết sức quan trọng.(;lữ liên lạc thông suốt, Trung ương mới có thể thường xuyên thu nhận tình hình ở các khu,tỉnh, thành để kịp thời lãnh đạo và chủ động mọi mặt hoạt động ở các địa phương. V vậy, ngay từ thời kỳ đầu không chiến, Trung ương đã phân công một số cán bộ lãnh đạo đến các Vùng quần trọng: Lê Duẩn và Phạm Hùng ở Nam Bộ, Phạm Văn Đồng vào khu V cùng với Nguyên Duy Trinh và Nguyên Chánh, Hồ Tùng Mậu, Nguyên Chí Thanh, Trần Hữu Dực ở khu IV và mặt trận Bình - Trị - Thiên. Tại Thanh Hoá - nơi mà Trung ương chủ trương xây dựng thành hậu phương thứ hai sau Việt Bắc - có sự chỉ đạo thường xuyên của những cán bộ có năng lực và uy tín. Thông qua của các cán bộ biệt phái từ ATK ở Việt Bắc, Trung ương vẫn thường xuyên theo dõi được tình hình ở các chiến trường.Đây chính là điều kiện đảm bảo cho sự liên lạc giữa ATK Trung ương với các địa phương được thông suốt trong hoàn cảnh kháng chiến ngày càng ác liệt. Sự lãnh đạo của Trung ương từ ATK Việt Bắc đối với mọi hoạt động của các chiến trường trong toàn quốc vẫn được giữ vững. An toàn khu Trung ương là nơi đầu tiên thực hiện chế độ dân chủ mới: Phạm vi An toàn khu Trung ương bao gồm những địa phương nằm trong khu giải phóng hình thành từ trong cao trào kháng Nhật cứu nước. Nhân dân các dân tộc trong vùng đã từng được hưởng một số quyền lợi do cách mạng đem lại thông

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfyudtgosuigajeioygpagd9oua0ewigiw (7).pdf