8 năm hoạt động hỗ trợ kỹ thuật tăng cường ứng phó khẩn cấp với cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam

Lịch sử phòng chống kiểm soát cúm gia cầm độc lực

cao ở Việt Nam khá ngắn ngủi, tuy nhiên 10 năm

qua là thời gian chúng ta đã có thêm những hiểu biết

sâu sắc cũng như đã trải qua những quanh co, khúc

khuỷu trên con đường đến thành công ngày nay. Nỗ

lực của FAO trong công tác hỗ trợ phòng chống cúm

gia cầm độc lực cao đang đi vào giai đoạn kết thúc,

mặc dù đã được áp dụng theo cách tiếp cận rộng hơn

của Sáng kiến Một sức khỏe đối với ngành thú y và

các bệnh lây truyền từ động vật sang người, đây là

lúc để chúng ta đưa ra đánh giá đối với chương trình

đã thực hiện để rút ra các bài học và các chú ý quan

trọng qua quá trình thực hiện. Một phần bổ sung

quan trọng cho đánh giá này là bộ tài liệu của FAO

về “Các bài học rút ra sau cúm gia cầm độc lực cao

– tổng kết kết quả, tác động, các thực hành tốt nhất

và các bài học rút ra từ công tác phòng chống cúm

gia cầm độc lực cao tại châu Á giai đoạn 2005-2011”.

Cùng với tài liệu này, đánh giá nhìn lại nỗ lực kiểm

soát cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam không có

tham vọng đưa ra một tài liệu hoàn chỉnh tổng kết

tất cả kết quả và tác động của Chương trình kiểm

soát cúm gia cầm độc lực cao mà chỉ mang tính chất

là một tài liệu tóm tắt lại những kinh nghiệm và

thách thức chính đặt ra cho Việt Nam trong công tác

giải quyết vấn đề dịch bệnh phức tạp này, tập trung

vào các đóng góp của USAID, đồng thời có sự liên

hệ đến các khu vực dự án khi phù hợp. Tài liệu này

đánh giá tình hình cúm gia cầm độc lực cao tại Việt

Nam vào một số thời điểm trong vòng 8 năm qua

qua lăng kính của các hoạt động và tác động ở các

lĩnh vực chính như công tác phối hợp, giám sát, công

tác chẩn đoán xét nghiệm, tiêm phòng, an toàn sinh

học, kinh tế- xã hội và truyền thông vận động.

pdf120 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu 8 năm hoạt động hỗ trợ kỹ thuật tăng cường ứng phó khẩn cấp với cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản của các hộ kinh doanh vừa và nhỏ ở cấp thôn, hoặc sự lớn mạnh nhanh chóng của tiểu ngành chăn nuôi vịt. Mức độ hiểu biết kỹ thuật của những người nông dân này không đủ để giúp họ giải quyết được vấn đề gặp phải và phần lớn trong số họ không đủ trình độ kiến thức để có thể dễ dàng tiếp thu và nắm bắt khối lượng lớn thông tin mang tính khái niệm được đưa đến ồ ạt trong một thời gian ngắn như vậy. Như đã nói đến ở phần trước, vấn đề là họ không thấy được lợi ích của việc tiến hành thay đổi kể cả khi đã có các cơ chế xử lý tình huống. Trong khi Bộ NN và PTNT có một mảng dịch vụ khuyến nông đáng kể thì phần lớn trọng tâm của mảng dịch vụ này chỉ dồn vào nông học mà không có mấy kinh nghiệm về thú y và mở rộng sản xuất, vì vậy một mạng lưới đào tạo dành cho nông dân chăn nuôi gia cầm đã không được xây dựng. Ngoài ra, Cục Chăn nuôi không có chi cục cấp tỉnh hoặc văn phòng cấp huyện, như hệ thống của Cục Thú y. Kết quả là, không có cổng thông tin sẵn sàng để liên lạc với người nông dân lúc này đang cùng với chính phủ giải quyết vấn đề trong một môi trường thuận lợi. Thực tế cũng cho thấy Hướng dẫn an toàn sinh học được Cục Chăn nuôi (mới thành lập năm 2006) ban hành có lẽ không phù hợp với tình hình lúc đó. Tại Cục Thú y không có chuyên gia về các bệnh gia cầm hay một nhà nghiên cứu bệnh học nào cả. Tất cả những điều này dẫn đến việc thiếu sự gắn kết giữa các cơ quan thú y với hộ sản xuất. Lĩnh vực buôn bán quy mô lớn lúc đó nắm được các kỹ năng kỹ thuật về quản lý gia cầm trong đó có kiểm soát dịch bệnh, tuy nhiên sự gắn kết về mặt kỹ thuật giữa lĩnh vực tư nhân với các dịch vụ thú y của chính phủ rất mờ nhạt. Rõ ràng là chính các đơn vị tư nhân là người tư vấn cho khách hàng của mình, và có thể cảnh báo về yêu cầu phải thắt chặt an toàn sinh học tại các trang trại nuôi gia cầm thương phẩm, tuy nhiên không thấy sự liên kết hiệu quả giữa nhà nước và khu vực tư nhân trong việc quản lý vấn đề cúm gia cầm độc lực cao. Có thể đặt câu hỏi về việc có phải do ở giai đoạn đầu, những đóng góp của các tổ chức quốc tế đã không thật sự thích hợp với hệ thống chăn nuôi gia cầm hộ gia đình vừa và nhỏ vẫn tồn tại vào năm 2005-2006. Cũng có thể đó là tình huống “thanh xà ngang đặt quá cao” khiến nhiều người chơi bỏ cuộc. Tuy nhiên, lúc đó đang tồn tại nguy cơ lây bệnh từ động vật sang người cùng với việc không có đầy đủ kiến thức dịch tễ học về tình hình hiện tại nên vấn đề được coi là khẩn cấp, đòi hỏi phải tiến hành một thay đổi quan trọng ở phía những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Việc truyền tải các thông điệp kỹ thuật là rất khó thực hiện và lúc đó thay bằng việc đánh giá xem các hộ chăn nuôi gia cầm có thể làm gì để bảo vệ chính mình và gia đình mình khỏi mầm bệnh và cứu số tiền đầu tư của mình thì người ta lại chỉ tập trung phân tích xem các thực hành sản xuất có gì sai. Quả thực, vấn đề có vẻ nằm ở việc truyền thông đến hộ chăn nuôi về khái niệm rủi ro và vấn đề này sẽ được đề cập lại ở phần nội dung nói về công tác truyền thông. Nhìn chung, khoảng cách về mặt khái niệm này liên quan đến việc không coi trọng “lý thuyết mầm bệnh” và không coi tác nhân gây bệnh là một “vi sinh vật sống” . An toàn sinh học được coi là một phí tổn và bất kể mức độ đầu tư như thế nào đi chăng nữa nó vẫn được đánh giá trên cơ sở chi phí kinh tế nhận thấy được cùng với khả năng rõ ràng về bùng phát dịch bệnh, và vẫn không được coi là thành tựu công ích. Nhìn ngược lại thời gian, có thể thấy là nếu một hộ chăn nuôi chỉ có những thực hành kém trong hầu hết các hoạt động chăn nuôi gia cầm thì hộ đó khó có khả năng đưa ra được một thực hành chuẩn mực cao để có thể mang lại dù chỉ là một chút lợi ích hữu hình. Sự cải tiến để an toàn sinh học được lồng ghép trong phương thức quản lý gia cầm tốt đã được nhận được sự đánh giá cao trong lĩnh vực này. 79 Chương 5. An toàn sinh học Ở giai đoạn 2006-2010, các dự án của Chương trình cúm gia cầm giữa Chính phủ Việt Nam và FAO bắt đầu thu thập thông tin từ thực địa và sau đó thăm dò việc can thiệp kỹ thuật vào các vấn đề an toàn sinh học đã được xác định. Một số tổng quan kỹ thuật đã nhận được hỗ trợ của dự án 604, tuy nhiên các nguồn hỗ trợ khác là do các bên đối tác khác của chương trình cúm gia cầm như Chương trình chung LHQ (UNJP) thực hiện. Hầu hết các can thiệp về an toàn sinh học ở cấp làng xã đều do các tổ chức phi chính phủ thực hiện, trong khi điều quan trọng đối với Chương trình cúm gia cầm là phải tìm ra các điểm tác động thích hợp vì quy trình làm việc là phải thông qua các ban ngành kỹ thuật của chính quyền trung ương và các mối quan hệ của họ với các ban ngành địa phương. Các đánh giá đã được tiến hành trên nhiều lĩnh vực ở cấp cơ sở và đánh giá đầu tiên cho thấy vấn đề tồn tại ở giai đoạn này là việc sử dụng chất khử trùng trong các hoạt động ứng phó dịch bệnh. Trong khi các hành động ứng phó với bùng nổ dịch bệnh thường không được cân nhắc trong danh mục an toàn sinh học thì thực tế việc khử trùng thích hợp là một hành động ngăn chặn sinh học quan trọng khi vi rút xuất hiện. Thêm vào đó, có rất nhiều trường hợp sử dụng chất khử trùng không hợp lý tại các cơ sở chăn nuôi - ở đó nhiều người dân đã dùng chất khử trùng một cách không hợp lý và lãng phí, trong một số trường hợp còn có thể gây ra ảnh hưởng đến môi trường. Điều quan trọng là, các cơ quan thú y ở cấp cơ sở hầu như không có kiến thức kỹ thuật về việc sử dụng hợp lý và thêm vào đó là việc không coi trọng yêu cầu cần phải dọn, rửa sạch các chất hữu cơ trước khi phun chất khử trùng. Để giải quyết vấn đề này, dự án đã tổ chức hàng loạt khóa tập huấn kỹ thuật cho cán bộ thú y cấp tỉnh và cán bộ ở các huyện của các tỉnh mà dự án có trách nhiệm hỗ trợ công tác kiểm soát dịch bệnh. Xây dựng năng lực cho ngành thú y về việc sử dụng hợp lý chất khử trùng hứa hẹn mang lại nhiều hiệu quả lan tỏa, bao gồm cả năng lực tư vấn cho người dân sử dụng chất khử trùng trong ứng phó với các dịch bệnh khác và các tình huống với các loài khác. Một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với Chính phủ Việt Nam và với FAO là việc xử lý xác gia cầm chết vì dịch bệnh và/hoặc tiêu hủy gia cầm Các hoạt động nhóm có sự tham gia được tiến hành trong khóa tập huấn về an toan sinh học tổ chức tại An Giang, 2009 Tình hình giai đoạn 2006-2010 © F AO 80 Chương 5. An toàn sinh học khi xảy ra dịch bệnh. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành đánh giá môi trường đối với các điểm chôn gia cầm trong thời gian xảy ra dịch lớn và Chương trình cúm gia cầm đã tiếp nối bằng việc xây dựng bộ hướng dẫn kỹ thuật cho các hoạt động chôn xác gia cầm chết bệnh trong tương lai thông qua các kịch bản môi trường khác nhau. Trong khuôn khổ hoạt động này, Chương trình cúm gia cầm đề xuất tiến hành ủ phân compost chính là một giải pháp thay thế thân thiện với môi trường thay cho phương thức chôn xác gia cầm ở những địa điểm không thích hợp. Tuy nhiên, thực tế là đã không đạt được một thỏa thuận chính sách với Chính phủ Việt Nam về việc ủ phân compost như một giải pháp thay thế hoàn toàn hợp lý về mặt kỹ thuật, an toàn và thiết thực so với việc chôn gia cầm chết bệnh. Trong khi việc này có thể được coi như là một thất bại của nỗ lực đầu tư thì hướng dẫn đầu tiên về hoạt động chôn xác gia cầm chết bệnh đã được chấp nhận, và thực sự là không lường trước được sự phản đối của các cán bộ kỹ thuật với phương pháp ủ phân compost như một giải pháp thay thế đúng đắn cho việc chôn gia cầm chết bệnh. Chương trình cúm gia cầm không đi sâu tìm hiểu thêm về sự do dự này mà chỉ lưu vào tài liệu các lý do chính được cung cấp – khó khăn trong việc quy định chính sách về các điểm ủ phân để đảm bảo các điểm này không bị can thiệp. Cuốn cẩm nang về xử lý rác thải an toàn và ủ phân compost hiện vẫn còn đó và các khuyến nghị về xử lý chôn lấp đã được chấp nhận đưa vào văn bản quy định nhà nước. Nhằm đưa ra cơ cấu tổ chức cho sự hỗ trợ từ các nguồn khác nhau và để cung cấp cho Cục Chăn nuôi một diễn đàn để phối hợp chặt chẽ với các bên liên quan, Chương trình cúm gia cầm đã hỗ trợ thành lập và vận hành Nhóm công tác về an toàn sinh học. Diễn đàn này có chức năngkhơi gợi các vấn đề kỹ thuật cần cân nhắc, củng cố và hài hòa tài liệu thông tin do các bên tham gia khác nhau cung cấp, chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau, đồng thời đưa ra các chương trình đã có được lý luận chặt chẽ để cùng xây dựng và thực hiện. Về cơ bản, diễn đàn này mang lại một cơ chế khuyến khích sự minh bạch và điều phối các hoạt động tập trung vào an toàn sinh học. Chương trình cúm gia cầm cũng đã tổ chức cho nhiều chuyên gia tư vấn giàu kinh nghiệm về lĩnh vực chăn nuôi gia cầm quốc tế đến tìm hiểu về các thực hành an toàn sinh học trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm thương mại quy mô vừa và nhỏ. Một số vấn đề đã được nêu bật lên đặc biệt là các tiêu chuẩn hiện hành đang được áp dụng tại nhiều cơ sở ấp nở ở quy mô vừa và nhỏ còn rất sơ sài và hoàn toàn có thể nâng cao các tiêu chuẩn đó để mang lại lợi ích ngay cho sức khỏe của vịt con 1 ngày tuổi và sự phát triển của hệ miễn dịch. Một vấn đề khác đã được nêu lên là chất thải từ các trang trại nuôi vịt chính là chất gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với các nguồn nước mà thời điểm đó lại không có đủ các quy định xử lý các phụ phẩm này. Bằng phương pháp khuyến khích sự tham gia và lấy hộ chăn nuôi làm tâm điểm, sau đó Chương trình cúm gia cầm đã bắt đầu đề ra các hoạt động để giải quyết các mối lo này. Các hội thảo tham vấn quốc tế khác đã được tổ chức, sử dụng phương pháp tiếp cận đã được chuẩn hóa để đánh giá các thực hành an toàn sinh học tại nơi các khóa tập huấn do nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế thực hiện. Các bằng chứng thu được cho thấy tại thời điểm đó hầu hết những hộ chăn nuôi đã được tham gia tập huấn đều nhận thức rất rõ về các thông tin đã truyền tải đến họ, tuy nhiên họ vẫn chưa sẵn sàng thực hiện những thay đổi như đã được mô tả vì lý do chi phí tốn kém, áp lực của thị trường đối với lợi nhuận, và do họ nhận thức rằng rủi ro chỉ là những nguy cơ trước mắt. Thêm vào đó, các bằng chứng cũng cho thấy sự thiếu hiểu biết về mặt kỹ thuật về nguyên tắc và thực hành an toàn sinh học của các cán bộ thú y – là những người đang tư vấn và hướng dẫn hộ chăn nuôi cấp huyện, xã. Một điều khá rõ nữa là phương pháp “tập trung vào một bệnh” không thu hút được sự tham gia của các hộ sản xuất một cách hiệu quả và cần phải nhấn mạnh vào các lợi ích 81 Chương 5. An toàn sinh học Trong giai đoạn này, dự án 604 đã tiếp tục hỗ trợ tài chính cho các sáng kiến liên quan đến an toàn sinh học và các hoạt động được thiết kế trên cơ sở của các kết quả đầu ra trước đây của chương trình cúm gia cầm. Cho đến cuối giai đoạn củng cố này, dự án đã từng bước chuyển trọng tâm một cách chiến lược từ áp dụng các biện pháp an toàn sinh học đối với chăn nuôi gia cầm vừa và nhỏ sang các hoạt động nhằm mục tiêu đưa ra các căn cứ thực tiễn để xây dựng chính sách cho các mảng khác nhau của lĩnh vực chăn nuôi gia cầm như đã đề cập ở trên. Trong vòng 4 năm sau đó, các hướng dẫn thực hiện an toàn sinh học tại cơ sở ấp trứng gia cầm và các trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ quy mô vừa và nhỏ đã được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, cùng với đó là việc tổ chức các khóa tập huấn cho cán bộ thú y của các chi cục về kỹ năng kiểm tra các cơ sở ấp nở theo tiêu chuẩn an toàn sinh học. Nhiều mô hình trang trại đã được xây dựng để thử nghiệm và chứng minh hiệu quả của các hướng dẫn trên. Các hướng dẫn cho hoạt động của cơ sở ấp nở và trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ phù hợp tiêu chuẩn đã Cán bộ hạt nhân về an ninh sinh học và đánh giá lò ấp tại Cần Thơ, 2013 của thực hành quản lý tốt bao gồm đảm bảo vệ sinh và giảm mầm bệnh. Để đáp ứng nhận thức đang dần được nâng cao của người dân, Chương trình cúm gia cầm bắt đầu đi sâu nghiên cứu vấn đề tồn tại trong cơ cấu của ngành chăn nuôi gia cầm và các hệ thống chợ, để hỗ trợ nghiên cứu, sơ đồ mô tả về ngành chăn nuôi gia cầm tại các tỉnh dự án đã được xây dựng. Phạm vi công việc này cũng được mở rộng thêm đến các ban quản lý các chợ chủ chốt và các lò mổ lân cận nhằm hiểu biết sâu hơn về hoạt động của các cơ sở này cũng như việc làm thế nào để có thể giảm bớt nguy cơ lây truyền vi rút tại các mắt xích này của chuỗi thị trường. Một kết quả quan trọng đạt được trong quá trình này là bản đồ trang trại chăn nuôi gia cầm, lò ấp và chợ đã được hoàn thành trong một bộ Atlas về chăn nuôi gia cầm cho các tỉnh tham gia dự án. Dù chỉ là những khuôn hình tĩnh nhưng bản đồ này giúp ích rất nhiều trong việc thuyết minh với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về sự cần thiết phải hiểu rõ các thông tin về ngành chăn nuôi gia cầm để có thể quản lý các vấn đề xảy ra trong lĩnh vực này. Tình hình giai đoạn 2010 - 2014 © F AO 82 Chương 5. An toàn sinh học FAO đã rất nỗ lực phối hợp trên tinh thần xây dựng với Cục Chăn nuôi trong phạm vi chương trình và đề xuất một phương pháp đã được biện luận chặt chẽ và logic để từng bước tăng cường năng lực kỹ thuật cho cán bộ các cấp về các thực hành quản lý tốt trong đó có an toàn sinh học. Hiện giờ là trách nhiệm của các ban ngành kỹ thuật trong đó có các Trung tâm khuyến nông trong việc duy trì bền vững và phát huy phương pháp này. Điều này một phần phụ thuộc vào vai trò của chính quyền các cấp trong việc xem xét hỗ trợ chăn nuôi gia cầm quy mô vừa và nhỏ. Để duy trì bền vững các kết quả đạt được cho đến nay, cần tiếp tục có sự quan tâm và nhất quán đến các chiến lược an toàn sinh học cho sản xuất chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ cũng như việc quản lý các rủi ro liên quan đến các mầm bệnh mới và mới nổi trong các lĩnh vực này. Cho đến nay, Nhóm công tác về an toàn sinh học đã đóng một vai trò quan trọng và hoạt động của nhóm này sẽ cần đến sự cam kết của Chính phủ Việt Nam và nhất là sự tham gia phối hợp của khu vực tư nhân. Trong vòng 8 năm qua, mối liên kết công-tư này chưa thực sự vững mạnh, một phần vì hai lĩnh vực này có xu hướng hoạt động tách rời, và có thể bởi vì trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, hai lĩnh vực này không phù hợp với nhau. Theo ý kiến đánh giá của nhiều chuyên gia phân tích độc lập, với thực tế không có các tổ chức độc lập đại diện và vận động hành lang cho các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ có nghĩa là các cơ sở này sẽ khó có tiếng nói để gây áp lực lên bất kỳ cấp chính quyền nào. Cần phải tăng cường hơn nữa năng lực kinh nghiệm về chăn nuôi gia cầm trong khối cơ quan nhà nước và để làm được như vậy thì các cơ sở chăn nuôi gia cầm quy mô vừa và nhỏ cần phải được tích hợp vào nền kinh tế chính thống và phải được đánh giá và hỗ trợ như một tài sản vô giá của quốc gia. Tương lai và tính bền vững được lồng ghép trong các văn bản hướng dẫn kỹ thuật chính thức của Bộ NN và PTNT và Cục Chăn nuôi đã được ban hành hoặc sẽ được ban hành. Dự án này tiếp tục là động lực cho nhóm công tác về an toàn sinh học và kết quả từ các hoạt động tại thực địa vẫn tiếp tục được báo cáo và đánh giá trên diễn đàn này. Để đẩy mạnh hơn nữa phương pháp phân tích rủi ro đối với an toàn sinh học, 3 chương trình đánh giá khu vực chính đã được thực hiện theo quy trình tư vấn và có sự tham gia. Các hội thảo tham vấn này đã đưa ra một bức tranh rõ nét về rủi ro chung mà vi rút H5N1 hoặc các mầm bệnh khác gây ra cho các đàn gia cầm. Trong quá trình này, các khóa tập huấn cũng được tổ chức để giới thiệu với cán bộ các chi cục thú y tỉnh về các nguyên tắc và ứng dụng thực tế của các phương pháp phân tích rủi ro định tính đã được sử dụng, và vì vậy việc xây dựng những năng lực quan trọng chính là một sản phẩm phụ của quá trình này. Sản phẩm cuối cùng của hội thảo tham vấn là đưa ra phương pháp quản lý dịch cúm gia cầm độc lực cao toàn quốc trên cơ sở đánh giá rủi ro và hiểu rõ đường đi của vi rút H5N1 cả trong và ngoài phạm vi biên giới lãnh thổ. Trong quá trình đánh giá rủi ro, vai trò của hoạt động buôn bán xuyên biên giới đã được xác định là một yếu tố rủi ro quan trọng đối với an toàn sinh học ở cấp quốc gia. Các hoạt động tiếp theo sẽ được tiếp tục tiến hành để giải quyết vấn đề này trong bối cảnh phân tích chuỗi giá trị xuyên biên giới và quản lý rủi ro. 83 Chương 5. An toàn sinh học Các câu chuyện thành công chính trong lĩnh vực hoạt động này của dự án được mô tả là sự cam kết ổn định giữa FAO và đối tác kỹ thuật là Cục Chăn nuôi, tham gia từ phân tích tình huống tại hiện trường và xây dựng các giải pháp mang tính thực tiễn và phù hợp với nhu cầu của người chăn nuôi – đây là điều khác với mô hình chính quyền truyền thông theo phương thức “chỉ đạo từ trên xuống”. Điều này đòi hỏi phương pháp phải linh hoạt và cần nhiều nỗ lực từ phía chuyên gia nước ngoài cũng như sự tận tâm tận lực của đội ngũ chuyên gia tư vấn trong nước. Thành công trong việc hợp tác với Sở NN và PTNT của các tỉnh vốn không thực sự nhiệt tình với công tác phòng chống cúm gia cầm độc lực cao đã mang lại những tiến bộ quan trọng cho chương trình an toàn sinh học dành cho các cơ sở ấp nở và các trại nuôi vịt bố mẹ. Thành công trong việc xây dựng các hướng dẫn về an toàn sinh học phù hợp mục đích dành cho các cơ sở ấp nở và các trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ là kết quả cuối cùng của hoạt động tham vấn có sự tham gia của các bên liên quan. Việc Bộ NN và PTNT sau đó đưa bộ hướng dẫn này thành chính sách được Cục Chăn nuôi đánh giá là một thành quả chính của dự án. Quyết định số 1057/QĐ-BNNPTNT ra ngày 10/05/2013 là quy định chính thức về các tiêu chuẩn an toàn sinh học tối thiểu cho cơ sở ấp trứng gia cầm, và dự thảo hướng dẫn kỹ thuật hiện đang được hoàn thiện để quy định về các điều kiện an toàn sinh học cho các cơ sở chăn nuôi gia cầm bố mẹ. Những quy định bổ sung này sẽ được kết hợp với Quyết định số 1057 để quản lý trên diện rộng hơn đối với chất lượng các đàn giống gia cầm. Cam kết này cùng với việc xây dựng năng lực cho nhóm công tác quốc gia là một câu chuyện thành công khác. FAO đã mời một số chuyên gia tư vấn nước ngoài có nhiều kinh nghiệm và Các câu chuyện thành công Cuộc họp của Nhóm công tác An ninh sinh học về chủ đề chăn nuôi động vật hoang dã ở Việt Nam, 2013 © F AO 84 Chương 5. An toàn sinh học năng lực đến chia sẻ kiến thức về các lĩnh vực mà FAO vốn không có kinh nghiệm, đặc biệt là với các cơ sở chăn nuôi gia cầm thương phẩm. Việc xây dựng công cụ đánh giá kết quả những đóng góp đầu vào cho an toàn sinh học ở cấp làng xã, sau đó là các phân tích và các hoạt động ứng phó tiếp theo là bước quan trọng trong mô hình nhiều bước tăng dần để đạt được kết quả sản xuất. Phân tích như vậy rất quan trọng để truyền tải thông điệp đến các nhà tài trợ về hướng đi cần thiết cho chương trình trong tương lai. Nhóm công tác về an toàn sinh học chính là một sáng kiến quan trọng và mối quan hệ đối tác với Cục Chăn nuôi đã được thực hiện rất hiệu quả. Nhóm công tác về an toàn sinh học cũng đã hỗ trợ việc thu hút sự tham gia của các bên liên quan khác và giúp dự án tiếp cận được với các hoạt động về an toàn sinh học của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài trong việc tổ chức đánh giá và phân tích phương pháp tiếp cận. Nhóm công tác về an toàn sinh học đã cùng với dự án xử lý linh hoạt những khó khăn trong việc xây dựng hướng dẫn nuôi dưỡng động vật hoang dã. Đây rõ ràng là một việc không thuộc phạm vi chuyên môn kỹ thuật cũng như lĩnh vực quan tâm của FAO nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc liên kết mối quan hệ tương tác động vật hoang dã-con người. Việc này cũng giúp xây dựng mối liên kết với các dự án khác có cùng mối quan tâm đến tương tác động vật hoang dã-con người như dự án USAID PREDICT và RESPOND. Mặc dù bộ bản đồ chăn nuôi gia cầm và cơ sở ấp nở là những mô tả tĩnh về số lượng gia cầm ở từng tỉnh nhưng đã cung cấp được những minh họa rất tốt về nhu cầu dịch vụ thú y và lao động tham gia sản xuất để từ đó hiểu được các khía cạnh khác nhau của lĩnh vực chăn nuôi, là những vấn đề sẽ được giải quyết thông qua các hoạt động lập kế hoạch và quản lý rủi ro. Quá trình thiết lập phân tích rủi ro khu vực đã được nói đến trong phần nội dung về kinh tế xã hội bởi việc này giúp chúng ta hiểu được cơ cấu ngành và các rủi ro đi kèm đồng thời mang lại một cơ sở vững chắc cho phương pháp kiểm soát trong khu vực. Dự án coi hoạt động này là một đóng góp quý giá giúp hiểu rõ các khía cạnh khác nhau của cúm gia cầm độc lực cao H5N1 trong lĩnh vực chăn nuôi tại Việt Nam. Kỹ thuật ủ compost xác gia cầm chết được dự án coi là một thành công về mặt kỹ thuật và là một sản phẩm đầu ra quan trọng của dự án, đặc biệt việc này có khả năng giảm đáng kể ảnh hưởng môi trường của việc tiêu hủy và xử lý xác gia cầm. Phương pháp tận dụng những ngày trình diễn mô hình để khuyến khích thực hiện an toàn sinh học tại cơ sở ấp nở và trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ mang tính thực tế cao và đánh trúng tâm lý người dân, chủ yếu bởi vì những biện pháp đơn giản như tăng cường vệ sinh hoặc cải tiến ổ đẻ đã giúp tăng tỷ lệ ấp nở lên 5% và tương ứng với đó là 5% tỷ lệ trứng không nứt vỡ. Thực hiện các thay đổi trong hệ thống chăn nuôi không phải là việc dễ dàng tuy nhiên đã được hoàn thành tốt nhờ các nỗ lực đáng kể để hiểu rõ quá trình đưa ra quyết định của người nông dân, là những người có các giá trị xã hội riêng cần phải được giải quyết để có thể thực hiện chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi. 85 Chương 5. An toàn sinh học Hình 5.1: Địa điểm các lò ấp ở tỉnh Quảng Trị 86 Chương 5. An toàn sinh học Khái niệm an toàn sinh học và các nguyên tắc an toàn sinh học được đưa vào Việt Nam từ cuối năm 2003 khi xuất hiện những ổ dịch đầu tiên và đặc biệt là từ lúc dự án bắt đầu. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa được tất cả các bên liên quan chấp nhận đầy đủ. Có lẽ lý do là bởi vì ngành sản xuất gia cầm với an toàn sinh học thấp đã là truyền thống có từ lâu đời và nhìn chung người dân không có kiến thức hoặc hiểu biết về các nguyên tắc và cũng không đủ năng lực ứng phó. Cũng có thể có lý do nữa là Chính phủ chưa nhấn mạnh đủ tầm quan trọng của việc hỗ trợ hoặc khuyến khích thực hiện các biện pháp an toàn sinh học. Ở môi trường làng xóm, rất khó duy trì an toàn sinh học bởi gia cầm nuôi thả vườn là một nét truyền thống và một phần của phong tục xã hội, và gia cầm thả vườn cũng khá gần các cơ sở chăn nuôi vừa và nhỏ. Một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfa_i5611o_7772.pdf
Tài liệu liên quan