Mở đầu: Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch/ngầm có thể làm thay đổi cảm giác thần kinh tạm thời
hay vĩnh viễn do tổn thương thần kinh xương ổ dưới. Nguy cơ này càng tăng khi có sự tiếp xúc giữa chân răng
và ống răng dưới. Do đó, việc chẩn đoán chính xác bằng X‐quang là rất cần thiết khi nhổ răng.
Mục tiêu: nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ các ca có liên quan giữa chân răng và ống răng dưới trên
phim toàn cảnh, và đối chiếu trên cone beam CT để đánh giá khả năng liên quan thật sự.
Đối tượng‐Phương pháp: đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả, gồm 218 bệnh nhân với 392 răng khôn được
khảo sát trên phim toàn cảnh, để tìm các ca có một trong bảy các dấu hiệu sau: ống gián đoạn, ống thu hẹp, ống
chệch hướng, ống chập trên chân răng, vùng tối ở chân răng, chân răng thu hẹp và chân răng cong; các trường
hợp này sẽ được chụp CBCT. Tổng cộng 66 răng khôn được khảo sát trên CBCT bởi 2 phẫu thuật viên để xác
định mối liên quan thật sự.
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 536 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu 8 liên quan giữa chân răng khôn và ống răng dưới đối chiếu trên phim toàn cảnh và cone beam ct, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 310
8 LIÊN QUAN GIỮA CHÂN RĂNG KHÔN VÀ ỐNG RĂNG DƯỚI
ĐỐI CHIẾU TRÊN PHIM TOÀN CẢNH VÀ CONE BEAM CT
Phan Huỳnh An*, Lê Đức Lánh*
TÓM TẮT
Mở đầu: Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch/ngầm có thể làm thay đổi cảm giác thần kinh tạm thời
hay vĩnh viễn do tổn thương thần kinh xương ổ dưới. Nguy cơ này càng tăng khi có sự tiếp xúc giữa chân răng
và ống răng dưới. Do đó, việc chẩn đoán chính xác bằng X‐quang là rất cần thiết khi nhổ răng.
Mục tiêu: nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ các ca có liên quan giữa chân răng và ống răng dưới trên
phim toàn cảnh, và đối chiếu trên cone beam CT để đánh giá khả năng liên quan thật sự.
Đối tượng‐Phương pháp: đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả, gồm 218 bệnh nhân với 392 răng khôn được
khảo sát trên phim toàn cảnh, để tìm các ca có một trong bảy các dấu hiệu sau: ống gián đoạn, ống thu hẹp, ống
chệch hướng, ống chập trên chân răng, vùng tối ở chân răng, chân răng thu hẹp và chân răng cong; các trường
hợp này sẽ được chụp CBCT. Tổng cộng 66 răng khôn được khảo sát trên CBCT bởi 2 phẫu thuật viên để xác
định mối liên quan thật sự.
Kết quả: 98 răng khôn có chân răng liên quan với ống răng dưới trên phim toàn cảnh, chiếm 25%; trong đó
ống gián đoạn là dấu hiệu phổ biến nhất (13,01%). Trong số 66 ca chụp CBCT, 57 ca có liên quan thật sự; độ
tương hợp giữa phim toàn cảnh và CBCT là 86%.
Kết luận: các dấu hiệu gợi ý sự liên quan giữa chân răng và ống răng dưới trên phim toàn cảnh, trong hầu
hết các trường hợp là liên quan thật sự, cần chú ý các dấu hiệu này để phòng ngừa chấn thương thần kinh.
Từ khóa: ống răng dưới, thần kinh xương ổ dưới, răng khôn hàm dưới
ABSTRACT
THE RELATIONSHIP BETWEEN ROOTS OF WISDOM TOOTH AND INFERIOR ALVEOLAR
CANALCOMPARE BETWEEN PANORAMIC RADIOGRAPHY AND CONE BEAM CT
Phan Huynh An, Le Duc Lanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 310 ‐ 315
Introduction: The extraction of an impacted mandibular third molar can cause neurological complications
that consist of temporary or permanent sensory alterations due to the damage in the inferior alveolar nerve. The
risk increases dramatically when there is contact between an impacted molar and the inferior alveolar canal.
Therefore, an accurate radiographic diagnosis is necessary to estimate the risk involved with an anticipated
extraction.
Objectives: The purpose of this study to identify the incidence of the relationship between roots of
mandibular third molar and inferior alveolar canal on panoramic radiography and to investigate the diagnostic
accuracy of cone beam computed tomography (CBCT) compared to panoramic radiography in determining the
anatomical position of the impacted third molar in relation with inferior alveolar canal.
Materials ‐ Method: This is a descriptive – sectional study. The sample consisted of 218 patients with 392
lower mandibular third molar were estimated on panoramic radiography; the anatomical relationship between
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Phan Huỳnh An ĐT: 0979173933 Email: anrhm03@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 311
third molars and the inferior alveolar canal has been classified according to seven radiographic markers:
interruption in white line of canal, narrowing of canal, diversion of canal, superimposition canal, darkening of
root, narrowing of root, curve of root. We tested the predictive value of the radiographic markers in diagnosing
any contact between the third molar and the inferior alveolar canal by comparing the panoramic radiographic
with the CBCT. In total, sixty‐six relationships were assessed, for each of which a CBCT was requested. Cases
were verified for a true relationship. All cases were appraised by two surgeons.
Results: 98 lower wisdom teeth were found a close relationship on the panoramic radiography (25%), the
data showed that the interruption in white line of canal sign was the most common (13.01%). In 66 teeth which
were estimated on CBCT, 57 cases manifested true relationship (86%).
Conclusion: The presence of the signs of a close relationship found on the panoramic radiography
represents, in cases, a true relationship, highlighting these signs to present injury to the nerve.
Keywords: inferior alveolar canal, lower third molar, panoramic radiography, CBCT
MỞ ĐẦU
Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới là can
thiệp chiếm tỉ lệ cao trong chuyên khoa phẫu
thuật miệng Phẫu thuật này có một số biến
chứng nhất định và một trong những biến
chứng đáng chú ý là chấn thương thần kinh
xương ổ dưới(3,4). Tỉ lệ tổn thương thần kinh
xương ổ dưới do phẫu thuật nhổ răng khôn hàm
dưới lệch thay đổi từ 0,5% đến 8%, trong đó
nguy cơ tổn thương thần kinh vĩnh viễn là dưới
1%(8). Tuy tần suất thấp nhưng biến chứng này
lại gây xáo trộn đáng kể đến sinh hoạt hàng
ngày của bệnh nhân, ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của họ và là nguyên nhân hàng đầu
dẫn đến các vụ kiện tụng trong lĩnh vực nha
khoa. Việc điều trị biến chứng này đến nay chưa
đạt được kết quả nhất định và đòi hỏi phải thực
hiện nhiều thủ thuật phức tạp như vi phẫu nối
lại thần kinh; việc này hầu như chưa thể thực
hiện tại Việt Nam. Chính vì vậy, vấn đề phòng
ngừa là thiết thực và càng có ý nghĩa hơn.
Các yếu tố nguy cơ gây chấn thương thần
kinh xương ổ dưới đã được nhắc đến nhiều
trong các nghiên cứu như: tuổi, giới tính, thao
tác gây tê vùng hàm dưới, sử dụng dụng cụ
quay, kinh nghiệm và phương pháp mổ của
phẫu thuật viên , trong đó sự tiếp xúc giữa
chân răng và ống răng dưới (CR‐ORD) (không
có lớp xương ngăn cách giữa 2 cấu trúc này) là
quan trọng nhất; trong những trường hợp này
nguy cơ tổn thương thần kinh có thể lên đến
30% khi nhổ răng(5,6,7,9,10). Do vậy, việc chẩn đoán
chính xác mối liên quan này trước khi nhổ răng
khôn là rất cần thiết và quan trọng. Phim toàn
cảnh là gợi ý đầu tiên và được xem như yêu cầu
thường qui để đánh giá tương quan giữa CR‐
ORD trước khi nhổ răng. Các dấu hiệu trên
phim toàn cảnh có tính chất gợi ý cho sự liên
quan mật thiết này đã được nhiều nghiên cứu
chỉ ra như: ống chệch hướng, ống gián đoạn,
vùng tối ở chân răng, giá trị chẩn đoán của
mỗi dấu hiệu rất thay đổi trong các nghiên cứu
và mức độ chính xác chưa cao do thiếu những
thông tin theo chiều ngoài trong. Ngày nay, các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh ba chiều như
phim cắt lớp điện toán hay cone beam CT đã
giải quyết được những hạn chế trên. Nghiên cứu
của Miler cho thấy sự chính xác của các phương
tiện này đạt đến 96,8%, trong đó cone beam CT
ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong thời
gian gần đây do tính chính xác cao và những ưu
điểm như hạn chế lượng tia xạ cũng như giá
thành thấp hơn so với phim cắt lớp thông
thường(3,6,7).
Từ những nhận định trên, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này với các mục tiêu sau:
1. Xác định tỉ lệ % các ca có liên quan giữa
CRK‐ORD trên phim toàn cảnh theo từng dấu
hiệu đặc trưng.
2. Phân tích mối liên quan giữa CRK‐ORD
trên phim cone beam CT và đối chiếu với phim
toàn cảnh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 312
ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có răng khôn hàm dưới
mọc lệch hoặc ngầm, đến khám và điều trị tại
bộ môn Phẫu thuật miệng – khoa Răng Hàm
Mặt, Đại học Y Dược Tp. HCM từ tháng 9/2011
tới tháng 9/2012.
Tiêu chí chọn mẫu
Bệnh nhân đồng ý tham gia sau khi nghe
giải thích rõ về mục đích và yêu cầu của nghiên
cứu. Bệnh nhân có chụp phim toàn cảnh chẩn
đoán và hình ảnh trên phim có giá trị khảo sát,
phim không bị biến dạng làm ảnh hưởng đến
việc quan sát các chi tiết trên phim.
Tiêu chí loại trừ
Có dấu hiệu thấu quang quanh chóp răng
khôn trên phim kết hợp với biểu hiện bệnh lý
tủy trên lâm sàng, có một số bệnh lý ở xương
hàm có thể làm ảnh hưởng tê môi, phụ nữ
mang thai.
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả.
Các bước tiến hành
Khám đánh giá răng khôn lệch/ngầm, nếu có
chỉ định nhổ thì sẽ chụp phim toàn cảnh kỹ
thuật số, in kết quả trên phim, tiến hành lập
bệnh án (theo mẫu của bộ môn Phẫu thuật
miệng).
Đọc phim toàn cảnh trên thùng đọc phim và
ghi nhận kết quả bằng phiếu thu thập dữ liệu.
Các biến cần thu thập là: Họ và tên, tuổi, giới
tính, vị trí răng, tình trạng mọc, hướng lệch, độ
lệch, các dấu hiệu liên quan giữa CR‐ORD trên
phim toàn cảnh (gồm 7 dấu hiệu: Ống gián
đoạn, Ống chệch hướng, Ống thu hẹp, Ống chập
trên chân răng, Vùng tối ở chân răng, Chân răng
bị thu hẹp, Chân răng cong và các trường hợp có
từ 2 dấu hiệu trở lên).
Nếu có dấu hiệu liên quan trên phim toàn
cảnh thì tiến hành chụp CBCT để xác định liên
quan thật sự giữa CR‐ORD, đánh giá trên mặt
phẳng thiết diện:
‐ Liên quan: khi giữa CR‐ORD không có lớp
xương ngăn cách, sự tiếp xúc này có thể xảy ra ở
bất kì vị trí nào của chân răng (1/3 chóp, 1/3
giữa, hay 1/3 cổ).
‐ Không liên quan: có lớp xương ngăn cách
giữa CR‐ORD.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 218 bệnh nhân, 111
nam (50,9%) và 107 nữ (49,1%). Tuổi trung bình
của bệnh nhân là 25,07±0,4. Trong đó, tuổi nhỏ
nhất là 13 tuổi, lớn nhất là 50 tuổi. Độ tuổi
thường gặp nhất là 21‐30 tuổi, chiếm 72,5%.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ
tuổi và giới tính của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu.
Bảng 1: Phân bố độ tuổi và giới tính trong mẫu
nghiên cứu
Nhóm tuổi
Giới tính
Tổng
n (%)
Giá trị pNam
n (%)
Nữ
n (%)
13-20 10 (4,6) 17 (7,8) 27 (12,4)
p>0.05*
21-30 85 (39,0) 73 (33,5) 158 (72,5)
31-50 16 (7,3) 17 (7,8) 33 (15,1)
Tổng 111 (50,9) 107 (49,1) 218 (100,0)
(*): kiểm định Chi bình phương.
Khi khảo sát 392 răng khôn, chúng tôi ghi
nhận được 98 ca có dấu hiệu liên quan giữa CR‐
ORD trên phim toàn cảnh, chiếm tỉ lệ là 25%.
Trong đó, dấu hiệu ống gián đoạn thường gặp
nhất (52,04%), kế đến là dấu hiệu ống thu hẹp và
các ca có từ 2 dấu hiệu trở lên (12,25%). Dấu hiệu
ống chập trên chân răng chiếm 10,2%, vùng tối ở
chân răng 8,16%, các dấu hiệu còn lại chiếm tỉ lệ
thấp (1,02‐3,06%) (Biểu đồ 1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 313
52,04
1,0212,25
10,2
1,02
8,16
3,06
12,25
Ống gián đoạn
Ống chệch hướng
Ống thu hẹp
Ống trên chân răng
Chân răng thu hẹp
Vùng tối chân răng
Chân răng cong
≥ 2 dấu hiệu
Biểu đồ 1. Tỉ lệ % từng loại dấu hiệu trên phim toàn cảnh
Độ tương hợp của phim toàn cảnh và
CBCT
Khi khảo sát 392 răng khôn trên phim toàn
cảnh, chúng tôi ghi nhận 98 ca có dấu hiệu liên
quan giữa chân răng và ống răng dưới. Tuy
nhiên trong số này chỉ có 66 ca bệnh nhân đồng
ý chụp CBCT và 32 ca còn lại không đồng ý
chụp. Sau khi đối chiếu 66 ca có chụp CBCT này
với phim toàn cảnh trước đó, chúng tôi nhận
thấy 57 ca có liên quan thật sự, như vậy độ
tương hợp giữa 2 phương pháp chẩn đoán hình
ảnh này là 86%.
ộ tương hợp của các dấu hiệu
Mặt khác, trong số 66 ca có chụp CBCT:
37/43 ca ống gián đoạn, 3/5 ca ống chập trên
chân răng, 4/4 ca ống thu hẹp, 2/3 ca vùng tối ở
chân răng và 11/11 ca có từ 2 dấu hiệu; cho thấy
có liên quan thật sự trên CBCT, như vậy độ
tương hợp của từng dấu hiệu lần lượt là 86%,
60%, 100%, 66,7% và 100%. Các ca có dấu hiệu
ống chệch hướng (1 ca), chân răng thu hẹp (1 ca)
và chân răng cong (3 ca) đều rơi vào 32 ca bệnh
nhân không đồng ý chụp CBCT, nên chúng tôi
không thể đối chiếu và tính độ tương hợp của 3
dấu hiệu này (Bảng 2).
Bảng 2: Độ tương hợp của các dấu hiệu.
Dấu hiệu
Liên quan
trên toàn
cảnh
Liên quan trên
CBCT
Độ tương
hợp
Ống gián đoạn 43 (65,2%) 37 (64,9%) 86%
Ống chập trên
chân răng 5 (7,6%) 3 (5,3%) 60%
Ống thu hẹp 4 (6,1%) 4 (7,0%) 100%
Vùng tối chân răng 3 (4,5%) 2 (3,5%) 66,7%
Từ hai dấu hiệu 11 (16,6%) 11 (19,3%) 100%
Tổng 66 (100%) 57 (100%)
BÀN LUẬN
Tỉ lệ % các ca có dấu hiệu liên quan giữa
CR‐ORD trên phim toàn cảnh
Trong 392 răng khôn được khảo sát với
phim toàn cảnh trước phẫu thuật, có 98 răng có
ít nhất một hay hai dấu hiệu gợi ý sự liên quan
giữa CR‐ORD. Như vậy, tỉ lệ phần trăm các ca
có dấu hiệu liên quan giữa CR‐ORD trên phim
toàn cảnh là 25% (98/392).
Tỉ lệ của chúng tôi phù hợp với tỉ lệ đã được
báo cáo trong nghiên cứu của Nakamori là
23,3% và Bell là 29,67%(1,10).
Nhưng thấp hơn tỉ lệ trong nghiên cứu của
Gerlach 37,6%, Gomes 61,2%, Szalma 52,8%; và
cao hơn trong một số nghiên cứu như Andrew
12,73%, Rood – Shehab 16,4% và Nakayama
2,9%(12,11).
Đặc biệt chúng tôi nhận thấy có một số
nghiên cứu báo cáo với tỉ lệ rất cao như:
‐ Susarla – Dodson (2007): 80,4%.
‐ Tantanapornkul (2007): 78,9%.
‐ Sedaghatfa (2005): 91,3%.
Sự khác biệt về tỉ lệ phần trăm các ca có dấu
hiệu trên phim toàn cảnh giữa các nghiên cứu có
thể do khác nhau về cỡ mẫu, tiêu chí chọn mẫu,
cũng như thiết kế nghiên cứu ban đầu. Chúng
tôi thấy rằng những nghiên cứu báo cáo với tỉ lệ
thấp thường là những nghiên cứu chọn mẫu
ngẫu nhiên và chọn ít dấu hiệu (3‐5 dấu
hiệu)(12,1,10). Trong khi những nghiên cứu hồi cứu
hay nghiên cứu có nhóm chứng có tỉ lệ khá cao,
do tiêu chí chọn mẫu thường hướng tới những
ca có dấu hiệu trên phim toàn cảnh và chọn lựa
theo nhiều dấu hiệu (từ 5 đến 7 dấu hiệu).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 314
Hơn nữa, các nghiên cứu có chọn thêm dấu
hiệu “ống chập trên chân răng” thường có tỉ lệ
cao hơn, vì dấu hiệu này xuất hiện với tần suất
khá cao. Chẳng hạn trong nghiên cứu của
Gerlach, tỉ lệ phần trăm các ca có dấu hiệu trên
toàn cảnh là 37,6%, nếu tính cả dấu hiệu ống
chập trên chân răng thì tỉ lệ này lên tới 61,6%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu này
chiếm tỉ lệ 2,55%.
Như vậy, nhìn chung tỉ lệ phần trăm các ca
có dấu hiệu liên quan giữa CR‐ORD trên phim
toàn cảnh khá thay đổi trong khoảng từ 2 – 40%.
Về tần suất của từng dấu hiệu, trong nghiên
cứu này chúng tôi nhận thấy: dấu hiệu “ống
gián đoạn” có tần suất cao nhất với 51 ca
(13,01%), kế đến là “ống thu hẹp” (3,06%) và
“ống chập trên chân răng” (2,55%). Các ca có 2
dấu hiệu cũng chiếm tỉ lệ bằng với “ống thu
hẹp” (3,06%). Điều này giống với kết quả của
Kim, Nakamori, Ghaeminia(5,7,10).
Theo nghiên cứu của Monaco, Albert,
Gomes, thì “vùng tối ở chân răng” là dấu hiệu
phổ biến nhất. Trong khi theo Khan(6), dấu hiệu
“ống chập trên chân răng” lại xuất hiện nhiều
nhất.
Theo chúng tôi, sự khác biệt này là do cỡ
mẫu và tiêu chí chọn mẫu khác nhau. Mặt khác,
chất lượng phim X‐quang ở mỗi nơi khác nhau
có thể cho kết quả khác nhau. Theo nghiên cứu
của Bundey, tần suất các dấu hiệu xuất hiện trên
phim toàn cảnh thông thường cao hơn trên
phim toàn cảnh kỹ thuật số (56% so với 48%).
Do đó, chúng tôi nghĩ rằng cần có một nghiên
cứu đa trung tâm về các dấu hiệu liên quan giữa
CR‐ORD trên phim toàn cảnh với tiêu chí chọn
mẫu và phương pháp thu thập dữ liệu tương
đối giống nhau mới có thể đánh giá và so sánh
được.
Độ tương hợp của phim toàn cảnh và phim
CBCT
Trong 98 răng có dấu hiệu trên phim toàn
cảnh, chúng tôi tiến hành khảo sát với CBCT
trên 66 răng. Kết quả cho thấy 57 răng có liên
quan thật sự giữa CR‐ORD, chiếm tỉ lệ 86,4%.
Nhìn chung, tỉ lệ này xấp xỉ với tỉ lệ trong
báo cáo của Ghaeminia là 84,9%(5), và cao hơn tỉ
lệ trong một số nghiên cứu khác: Albert 77,4%,
Nakagawa 76,7%, Nakamor 69,6%, Monaco
70,8%(2,9); và cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ được
báo cáo bởi Feras 25,5%, Jhamb 29%. Như vậy,
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ liên quan
thật sự trên CBCT là khá cao, hơn hẳn các
nghiên cứu trước đây. Sự khác biệt này có lẽ do
tiêu chí chọn mẫu khác nhau trong mỗi nghiên
cứu. Nghiên cứu của chúng tôi thu thập 6 dấu
hiệu theo Rood – Shehab(11) và một dấu hiệu
“ống chập trên chân răng” (được đề nghị bởi
Monaco), các nghiên cứu khác chỉ thu thập theo
3 – 5 dấu hiệu, trong khi dấu hiệu “ống chập
trên chân răng” có tỉ lệ khá cao. Hơn nữa,
nghiên cứu của chúng tôi chỉ khảo sát CBCT với
những trường hợp có dấu hiệu liên quan trên
toàn cảnh, trong khi một số nghiên cứu chụp
CBCT cho cả những trường hợp không có dấu
hiệu liên quan trên toàn cảnh, vì vậy tỉ lệ liên
quan thật sự sẽ thấp hơn.
Đồng thời, trong nghiên cứu này, chúng tôi
nhận thấy dấu hiệu ống gián đoạn và các ca có
từ hai dấu hiệu trở lên có tần suất cao nhất, lần
lượt là 65,2% và 16,6%, kế đến là các dấu hiệu
ống chập trên chân răng (7,6%), ống thu hẹp
(6,1%), vùng tối ở chân răng (4,5%). Trong khi 1
ca có dấu hiệu ống chệch hướng, 1 ca chân răng
thu hẹp và 3 ca chân răng cong trên phim toàn
cảnh không được khảo sát trên CBCT (vì không
có sự đồng thuận của bệnh nhân).
KẾT LUẬN
Tóm lại, sau khi đối chiếu các trường hợp có
dấu hiệu liên quan trên phim toàn cảnh với
CBCT, chúng tôi nhận thấy độ tương hợp khá
cao (86%). Do đó, ở những nơi chưa đủ phương
tiện chụp cắt lớp, phẫu thuật viên nên chú ý tới
những dấu hiệu này để tiên lượng chấn thương
thần kinh; nên giải thích rõ cho bệnh nhân về
nguy cơ và chỉ tiến hành nhổ răng khi có sự
đồng thuận và/hoặc chọn lựa một phương pháp
can thiệp khác để làm giảm biến chứng này.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 315
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bell GW (2004), “Use of dental panoramic tomographs to
predict the relation between mandibular third molar teeth
and the inferior alveolar nerve Radiological and surgical
findings, and clinical outcome”, British Journal of Oral and
Maxillofacial Surgery, 42, pp. 21‐27.
2. de Melo ADG (2006), “Comparison of Orthopantomographs
and Conventional Tomography Images for Assessing the
Relationship Between Impacted Lower Third Molars and the
Mandibular Canal”, J Oral Maxillofac Surg, 64, pp.1030‐1037.
3. Eyrich G (2011), “3‐Dimensional Imaging for Lower Third
Molars: Is There an Implication for Surgical Removal?”, J Oral
Maxillofac Surg, 69, pp.1867‐1872.
4. Feras Y (2012), “Cone Beam Tomography (CBCT) as a
Diagnostic Tool to Assess the Relationship between the
Inferior Alveolar Nerve and Roots of Mandibular Wisdom
Teeth”, Smile Dental Journal, 7(3), pp.12‐17.
5. Ghaeminia H (2009), “Position of the impacted third molar in
relation to the mandibular canal. Diagnostic accuracy of cone
beam computed tomography compared with panoramic
radiography”, Int J Oral Maxillofac Surg, 38, pp.964‐971.
6. Khan I (2011), “Correlation of Panoramic Radiographs and
Spiral CT Scan in the Preoperative Assessment of Intimacy of
the Inferior Alveolar Canal to Impacted Mandibular Third
Molars”, J Craniofac Surg, 22, pp.566‐570.
7. Lauren A, Cooper A (2011), “Comparison of Cone Beam
Computed Tomography and Panoramic Radiography in the
Assessment of Mandibular Third Molars Prior to Extraction:
An Evidence‐Based Study of the Literature”, Community
Dentistry, pp.1‐15.
8. Leung YY, Cheung LK (2011), “Risk factors of neurosensory
deficits in lower third molar surgery: a literature review of
prospective studies”, Int J Oral Maxillofac Surg, 40(1), pp.1‐10.
9. Monaco G (2004), “Reliability of panoramic radiography in
evaluating the topographic relationship between the
mandibular canal and impacted third molars”, JADA, 135,
pp.312‐318.
10. Nakamori K (2008), “Clinical Assessment of the Relationship
Between the Third Molar and the Inferior Alveolar Canal
Using Panoramic Images and Computed Tomography”, J
Oral Maxillofac Surg, 66, pp.2308‐2313.
11. Rood JP, Shehab B (1990), “The radiological prediction of
inferior alveolar nerve injury during third molar surgery”, Br
J Oral Maxillofac Surg, 28, pp.20‐25.
12. Smith AC, Barry SE, Chiong AY, Hadzakis D, Kha SL, Mok
SC, Sable DL (1997), ʺInferior alveolar nerve damage
following removal of mandibular third molar teeth. A
prospective study using panoramic radiography”, Australian
Dental Journal, 42(3), pp.149‐152.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 310_1579.pdf