Bạn có bao giờ “ứa gan” khi thấy cái hệ điều hành Windows XP thời thượng
của mình ngày càng chạy chậm hơn không? Nhiều khi gấp gáp vào làm việc
mà nhìn nó đủng đỉnh khởi động, người ta thiếu điều muốn “kêu lính bắt nó
cho rồi”.
Thật tình có nhiều cách để giúp cho Windows làm việc nhanh hơn, thông
minh hơn và an toàn hơn. Và ở đây, chúng ta sẽ cho Windows một liều
Viagra bằng cách đột phá vào cái kho khổng lồ chứa các thiết đặt của hệ
điều hành. Đó là Registry.
Chắc cái bụng rồi thì bây giờ bạn bắt đầu “voọc” cái “trái cấm” Registry
nhé. Cách mở Registry Editor (trình biên tập Registry) là click Start ® Run,
gõ regeditvào box và nhấn Enter.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu 8 chiêu tối ưu hóa Windows XP bằng Registry, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8 chiêu tối ưu hóa Windows XP bằng
Registry
Bạn có bao giờ “ứa gan” khi thấy cái hệ điều hành Windows XP thời thượng
của mình ngày càng chạy chậm hơn không? Nhiều khi gấp gáp vào làm việc
mà nhìn nó đủng đỉnh khởi động, người ta thiếu điều muốn “kêu lính bắt nó
cho rồi”.
Thật tình có nhiều cách để giúp cho Windows làm việc nhanh hơn, thông
minh hơn và an toàn hơn. Và ở đây, chúng ta sẽ cho Windows một liều
Viagra bằng cách đột phá vào cái kho khổng lồ chứa các thiết đặt của hệ
điều hành. Đó là Registry.
Chắc cái bụng rồi thì bây giờ bạn bắt đầu “voọc” cái “trái cấm” Registry
nhé. Cách mở Registry Editor (trình biên tập Registry) là click Start ® Run,
gõ regedit vào box và nhấn Enter.
1. Tăng tốc cho menu Start
Đây là một mẹo “tweak” cái Registry rất đơn giản nhưng có thể giúp tăng
tốc mở menu Start và các menu phụ của nó.
Mở Registry Editor, chọn mục HKEY_CURRENT_USER\Control
Panel\Desktop. Click đúp chuột lên icon MenuShowDelay ở cánh bên phải.
Trên hộp thoại Edit String, thay 'Value data' từ giá trị mặc định 400
(milliseconds) bằng giá trị nhỏ hơn (tức nhanh hơn), thí dụ là 0. Ngược lại,
nếu thấy menu Start xuất hiện quá nhanh đối với mình, bạn có thể chỉnh cho
nó mở chậm lại, có thể tới 4000 (tức 4 giây). Xong xuôi, nhấn Enter.
2. Đóng các ứng dụng nhanh hơn
Vội đi đâu đó, bạn phải bye Windows ngay thôi. Nhưng khi thoát một
chương trình hay đóng Windows, bạn phải chờ nóng cả ruột để các ứng
dụng nào đó đóng lại thì mới có thể shut down được. Sau một lúc chờ đợi
mấy gã ứng dụng thoát ra, Windows cũng phát nóng ruột bèn tung ra cái hộp
thoại End Program để bạn có thể buộc các ứng dụng kia phải đóng ngay lại.
Bạn có thể giảm thời gian chờ đợi các ứng dụng đang chạy đóng lại bằng
mẹo mở Registry Editor, chọn HKEY_CURRENT_USER\Control
Panel\Desktop, sau đó click đúp lên icon của hai mục bên cánh phải:
1. HungAppTimeout, thay giá trị “Value data” từ mặc định là 5000
(milliseconds) xuống còn chừng 3000 (tức 3 giây) hay 2500.
2. WaitToKillAppTimeout, thay giá trị “Value data” từ mặc định là 20000
(20 giây) bằng giá trị thời gian mà bạn có thể chờ được (1000ms có nghĩa là
1 giây đó bạn nhé).
Nhấn Enter.
Nhưng không phải chỉ có các ứng dụng đang chạy mới làm quá trình shut
down Windows trở nên chậm chạp đâu nhé. Nhiều quá trình xử lý của
Windows XP (gọi là services) đang chạy cũng làm tăng thời gian chờ đợi
shut down. Bạn có thể giảm thời gian đóng của các dịch vụ Windows này
bằng cách mở Registry Editor, chọn
HKEY_LOCAL_MACHINE\SYSTEM\CurrentControlSet\Contro l, click
đúp lên icon WaitToKillServiceTimeout bên cánh phải. Thay đổi giá trị mặc
định của 'Value data' từ 20000 (20 giây) bằng thời gian mà bạn cho phép các
dịch vụ đóng. Thí dụ 5000 (5 giây). Nhấn Enter. Xin lưu ý: Có một số dịch
vụ sẽ tự động tăng thời gian chờ của mình lên mức cần thiết đủ để có thể dọn
dẹp tác vụ của mình trước khi đóng.
Xin rỉ tai một bí mật: Bạn có thể buộc Windows phải tự động đóng các ứng
dụng đang treo mà không cần phải làm phiền bạn với cái hộp thoại End
Program nữa. Bạn mở Registry Editor, chọn
HKEY_CURRENT_USER\Control Panel\Desktop. Click đúp lên icon
AutoEndTasks ở cánh phải và thay đổi 'Value data' từ 0 thành 1. Nhấn
Enter. (Để khôi phục lại chức năng hộp thoại End Program mặc định của
Windows, bạn chỉ cần nhập lại giá trị mặc định của AutoEndTasks là 0.) Tuy
nhiên, bạn bè cũng xin nói thật với nhau: Việc chọn cho phép các vụ tự động
tắt không cần Windows thông báo như thế có thể gây tổn hại cho các thiết
đặt hệ thống do buộc các ứng dụng phải quýnh quáng đóng quá nhanh,
không kịp thực hiện các bước chuẩn bị và dọn dẹp các tàn tích do chúng tạo
ra trong quá trình chạy. Cách dung hòa là bạn vẫn cho Windows thông báo
End Program, nhưng giảm thời gian chờ đóng của các ứng dụng đang chạy
như vừa trình bày.
3. Thay đổi kích thước wallpaper
Bình thường thì các hình nền wallpaper được thiết kế cho vừa với độ phân
giải của màn hình. Nếu ảnh lỡ nhỏ hơn một chút thì bạn vẫn có thể dùng tùy
chọn Stretch trong Properties ®Desktop ®Position để kéo nó ra cho phủ hết
màn hình desktop.
Nhưng cũng có khi bạn muốn đưa lên desktop một hình khá nhỏ hay đơn
giản là muốn cái desktop của mình hơi bị lạ mắt, như cho wallpaper nằm ép
về một bên nào đó.
Bạn mở Registry Editor, chọn HKEY_CURRENT_USER\Control
Panel\Desktop và xem ở bên cánh phải đã có các key WallpaperOriginX
và WallpaperOriginY chưa? Nếu chưa có, bạn phải tự tạo chúng thôi.
(Tham khảo: Cách tạo key mới)
Click chuột phải lên một khoảng trống bên cánh phải, chọn New ® String
Value và gõ tên key vào. Nhấn Enter. Key WallpaperOriginX để xác định
vị trí cạnh trái (giá trị dương) hay cạnh phải (giá trị âm -) của wallpaper trên
desktop. Còn key WallpaperOriginY để xác định vị trí cạnh trên (giá trị
dương) hay cạnh dưới (giá trị âm -) của wallpaper. Để thay đổi vị trí của
wallpaper, bạn phải thay đổi giá trị (tính bằng pixel) của key tương ứng,
bằng cách click đúp lên icon của key và thay đổi giá trị “Value data” của nó.
Giá trị này tương ứng với khoảng cách từ mép ảnh ra tới cạnh màn hình.
Chẳng hạn, nếu muốn wallpaper nằm dạt về bên phải màn hình, ở key X,
bạn nhập giá trị dương (thí dụ: 200), còn ở bên trái thì dùng giá trị âm (-
200). Tương tự, ở key Y, giá trị dương đẩy ảnh dạt về phía dưới màn hình và
âm đẩy lên phía trên.
Để test hiệu ứng này, bạn thu nhỏ cửa sổ Registry Editor (cũng như tất cả
các cửa sổ đang mở), click chuột phải lên màn hình desktop, chọn
Properties. Mở tab Desktop trên bộ hộp thoại Display Properties, bấm vào
một tùy chọn nào đó ở mục Position và nhấn Apply hay OK. Nếu chưa vừa
ý thì quành trở vào Registry Editor mà thay đổi giá trị của
WallpaperOriginX và WallpaperOriginY.
4. Tìm mọi loại file
Khi bạn tìm kiếm một file nào đó trong Windows (bằng cách chọn Start ®
Search ® For Files or Folders hay nhấn phím [F3] trong bất cứ cửa sổ
Explorer hay folder nào để mở cửa sổ tìm kiếm), Windows chỉ tìm kiếm các
định dạng file mà nó công nhận. Các định dạng file không được liệt kê trong
bản danh sách 'Registered file types' sẽ bị Windows “gặp nhau làm ngơ”.
(Để xem cái bản Phong Thần này, bạn chọn Tools ® Folder Options và mở
tab File Types.)
Có một mẹo Registry có thể bắt Windows phải ngoan ngoãn tìm kiếm bất cứ
file nào bạn cần mà không thèm quan tâm tới định dạng của nó.
Bạn mở Regitry Editor và chọn mục
HKEY_LOCALMACHINE\SYSTEM\CurrentControlSet\Control
\ContentIndex. Click đúp lên icon FilterFilesWithUnknownExtensions bên
cánh phải, thay đổi giá trị mặc định 0 trong 'Value data' thành 1, và nhấn
Enter.
Để chắc cú hơn nữa, bảo đảm cho Windows không cứng đầu cứng cổ bất
tuân thượng lệnh của mình, bạn mở cửa sổ Search lên, chọn All Files and
Folders, kéo thanh trượt xuống để đánh dấu chọn vào các mụcSearch
system folders, Search hidden files and folders, và Search subfolders. (Nếu
không thấy các mục này, bạn nhấn vào mục More advanced options).
Sau đó, bạn mở một cửa sổ nào đó của Windows (như My Computer,
Windows Explorer), nhấn lên menu Tools ® Folder Options, mở tab View,
chọn Show hidden files and folders, và bỏ chọn Hide protected operating
system files (Recommended). Khi có hộp thoại cảnh báo nguy hiểm, bạn cứ
việc nhấn Yes. Xong thì nhấn OK.
5. Lộ mặt accountAdministrator
Theo mặc định, account "Administrator" của Windows XP được giấu, trừ
khi máy bạn không có thiết đặt một account nào khác hay khi boot ở chế độ
Safe Mode. Nếu muốn cho account "Administrator" lộ mặt trên màn hình
Welcome của Windows, bạn có thể dùng mẹo Registry.
Mở Registry Editor, chọn mục
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows
NT\CurrentVersion\Winlogon\SpecialAccounts\UserLis t. Click đúp lên icon
Administrator trên cánh phải và thay đổi giá trị của nó trong “Value data”
từ 0 thành 1.
Nếu không thấy có icon này, bạn phải tạo nó thôi. Bạn click chuột phải lên
một khoảng trống ở cánh phải, chọn New ® DWORD Value và đặt tên cho
nó là Administrator, nhấn Enter. (Tham khảo: Cách tạo key mới)
Từ nay trở đi, mỗi khi bạn mở cửa sổ User Accounts thông qua Control
Panel (hay mở Start ® Run và gõ từ khóa Control userpasswords rồi
Enter), bạn sẽ nhìn thấy tên account Administrator. bạn có thể dễ dàng thay
đổi hình đại diện của nó hay đặt password cho nó. Rồi mỗi khi khởi động
Windows, bạn cũng sẽ thấy cái account Administrator chường mặt ra trên
màn hình Welcome bên cạnh tất cả các account khác.
6. Mở nhanh tới các key trong Registry
Có những key trong Registry của Windows XP mà bạn phải thường xuyên
lui tới để kiểm tra và hiệu chỉnh. Thí dụ cái key
HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Windows\Curre
ntVersion\Explore\MenuOder\ dùng để xếp các danh sách ứng dụng hay
link lại theo trật tự ABC (delete cái key Order). Nhưng nếu mỗi lần muốn
đụng tới chúng, bạn phải mở cửa sổ Registry Editor rồi bấm chuột mở hàng
loạt cây thư mục thấy mà muốn hoa cả mắt.
Mẹo xử cái vụ này là khai thác cái menu Favorites của Registry Editor.
Chọn trong cánh trái của cửa sổ cái key mà mình hay phải xài thường xuyên,
nhấn lên menu Favorites, chọn Add to Favorites, chọn OK trên hộp thoại
Add to Favorites.
Thế là từ nay, mỗi khi muốn xử cái key này, bạn chỉ việc mở menu Favorites
của Registry Editor, bấm vào tên key là nó đưa
bạn tót ngay tới vị trí key đó.
7. Thay tên đổi họ choInternet Explorer
Mặc định, thanh tiêu đều (title bar) của trình duệt Web Internet Explorer
hiển thị tên của trang Web mà bạn đang xem, tiếp theo là chữ "Microsoft
Internet Explorer". Trong một số trường hợp, trên thanh đó có tên công ty
bạn hay tên của ISP cung cấp trình duyệt Web đó.
Bạn có thể thay đổi các chữ xuất hiện trên thanh tiêu đề này (sao không thay
bằng tên bạn cho nó oách hén) bằng cách mở Registry Editor. Chọn
HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Internet Explorer\Main,
click đúp lên icon Window Title và gõ vào đó những chữ gì mình muốn hiển
thị. Nếu không thấy có key này, bạn tạo nó bằng cách click chuột phải lên
khoảng trống ở cánh phải, chọn New ® String Value và gõ tên vào tên key
Window Title. (Tham khảo: Cách tạo key mới)
Nếu không nhập chữ gì vào giá trị của key Window Title thì sau này trên
thanh tiêu đề IE sẽ chỉ còn tên trang Web mà mất đi cái dòng "Microsoft
Internet Explorer". Nếu muốn khôi phục lại tên cúng cơm cho "Microsoft
Internet Explorer", bạn phải delete cái key này.
Trước...
và sau khi sửa Registry.
8. Hiệu chỉnh dung lượng đĩa cho System Restore
Nếu Windows XP của bạn có bật chức năng khôi phục hệ thống System
Restore, cái mẹo Registry này có lẽ hữu ích à nghen.
Để thiết đặt dung lượng dành cho System Restore, bạn vào Control Panel
mở System, mở tab System Restore. Nhấn Setting và kéo thanh trượt để
xác định dung lượng đĩa dành cho chức năng này. Mặc định là Max (12%
dung lượng ổ đĩa mà bạn dành để chứa các dữ liệu của System Restore).
Nhưng thực tế là Windows không tự động sử dụng dung lượng đĩa này mà
tuân thủ theo mức mặc định trong Registry. Khi dung lượng đĩa trống còn
quá ít hay khi dung lượng dữ liệu lưu trữ vượt quá mức quy định, nó sẽ đình
công.
Vì thế, bạn có thể chỉnh sửa lại các giá trị của System Restore trong
Resgistry. Mở Registry Editor, chọn
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\ Microsoft\Windows
NT\CurrentVersion\SystemRestore. Bạn xem bên cánh phải có 3 key xác
định dung lượng ổ đĩa cho System Restore.
Đó là DiskPercent (tỷ lệ đĩa cứng thiết đặt trong Setting); DSMax (dung
lượng đĩa mặc định tối đa mà Registry cho phép System Restore sử dụng,
tính bằng MB, giá trị chung là 400); và DSMin (dung lượng đĩa mặc định tối
thiểu, giá trị chung là 200MB). Bạn thấy là dung lượng DSMax mặc định rất
thấp so với thực tế mà bạn muốn dành cho nó. Hãy click đúp chuột lên icon
DSMax, chọn hệ số thập phân Decimal và thay giá trị trong “Value data” từ
400 tới con số mà bạn muốn. Còn ở DSMin, để tránh tình trạng System
Restore “bỏ việc” khi thấy dung lượng đĩa trống còn 200MB, bạn click đúp
chuột lên key này vào thay giá trị Decimal còn 100 (tức 100MB).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8_chieu_toi_uu_hoa_windows_xp_bang_registry.pdf