Mở đầu: Việc xác định chính xác vị trí của lỗ ống răng dưới và lỗ cằm có ý nghĩa quan trọng trong phẫu
thuật vùng miệng mặt, giúp giảm thiểu tối đa nguy cơ làm tổn thương bó mạch thần kinh xương ổ dưới và thần
kinh cằm, góp phần cho thành công của quá trình phẫu thuật.
Mục tiêu: Xác định vị trí của lỗ ống răng dưới và vị trí, hình dạng, các kiểu biểu hiện của lỗ cằm trên hình
ảnh chụp X quang toàn cảnh kỹ thuật số.
Đối tượng và phương pháp: Phân tích đo đạc 300 hình ảnh chụp X quang toàn cảnh kỹ thuật số được lưu
trữ tại bộ môn Tia X. Các số liệu được đo trực tiếp trên máy vi tính bằng phần mềm Sidexis. Xử lý số liệu bằng
phần mềm SPSS 16.0 for Windows.
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu 7 vị trí lỗ ống răng dưới và lỗ cằm trên hình ảnh chụp toàn cảnh kỹ thuật số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u thì lỗ cằm có thể ở vị trí từ dưới răng 
cối nhỏ  thứ nhất đến giữa các chân cối  lớn  thứ 
nhất, nhiều nghiên  cứu  cho  thấy  rằng vị  trí  lỗ 
cằm giữa các trục của hai răng cối nhỏ mới là vị 
trí  thường gặp hơn, như  trong nghiên cứu của 
Al‐Khateeb T. và cộng sự (2007)(1).  
Vị trí trên dưới thường gặp nhất của lỗ cằm 
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng hoàn toàn 
phù  hợp  với  kết  quả  của  nghiên  cứu  của Al‐
Khateeb T. và cộng sự (2007) (10), Jasser MN.Al. 
và cộng sự (1998)(5). Một số nghiên cứu xác định 
vị  trí  lỗ  cằm  theo  chiều  đứng  dựa  trên  tương 
quan  với  bờ  dưới  xương  hàm  dưới  và  mào 
xương  ổ  như  trong  nghiên  cứu  của  Talabani 
N.A. và Cộng sự (2008)(8) đã đưa ra kết luận vị trí 
lỗ cằm theo chiều đứng hơi nằm dưới điểm giữa 
bờ dưới xương hàm dưới và mào xương ổ. 
 Kết quả cho  thấy mặc dù có sự chênh  lệch 
nhẹ về  tỷ  lệ  lỗ cằm ở các vị  trí  tương ứng giữa 
nam và nữ, nhưng sự khác biệt này là không có 
ý nghĩa  thống kê  (p>0,005). Về vị  trí  trên dưới, 
kết quả này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu 
của Al‐Khateeb T. và cộng sự (2007)(1). Về vị  trí 
trước sau, theo Al‐Khateeb T.và cộng sự (2007)(1), 
có  sự  khác  biệt  về  vị  trí  trước  sau  của  lỗ  cằm 
giữa  nam  và  nữ,  ở  nam  lỗ  cằm  nằm  giữa  hai 
răng cối nhỏ là thường gặp nhất, trong khi đó ở 
nữ vị trí thường gặp nhất là trên đường trục của 
răng cối nhỏ thứ hai. 
Về  liên  quan  giữa  vị  trí  lỗ  cằm  với  tuổi, 
chúng  tôi  cũng  đã  chứng  minh  được  rằng  ở 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 308
nhóm  tuổi  lớn  hơn,  vị  trí  lỗ  cằm  có  khuynh 
hướng  về  phía  sau  hơn.  Điều  này  cũng  được 
nhận ra ở nghiên cứu trước đó Al‐Khateeb T. và 
cộng sự (2007) (1). ”Có khả năng sự thay đối sau 
này của vị trí lỗ cằm liên quan đến sự di chuyển 
của  các  răng  trước do  sự mòn  theo  tuổi  ở  các 
mặt tiếp cận phía gần của răng”(1). Lỗ cằm được 
chứng minh  có  vị  trí  thay  đổi  theo  chiều  trên 
dưới, mặc dù điều này có thể do chiều dài khác 
nhau của các chân răng trong mẫu nghiên cứu, 
tuổi là một yếu tố góp phần quan trọng.  
Theo  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thì  vị  trí 
thường gặp nhất của lỗ cằm theo chiều trên dưới 
là ở dưới mức chóp của các răng cối nhỏ ủng hộ 
quan điểm cho rằng sự thay đổi theo chiều trên 
dưới của  lỗ cằm  liên quan đến sự  thay đổi của 
tuổi. Tuy nhiên,  kết  quả  nghiên  cứu  cũng  cho 
thấy về sự gia tăng tỷ lệ lỗ cằm ở vị trí lên trên 
hơn ở nhóm  tuổi > 25  lại  trái ngược với những 
lập  luận  này,  điều  này  có  lẽ do  sự  chêch  lệch 
mẫu giữa 2 nhóm tuổi lớn và tỷ lệ lỗ cằm ở trên 
mức chóp các răng cối nhỏ  là rất thấp (chỉ có 2 
trường hợp chiếm 0,33%). 
Về hình dạng và kiểu biểu hiện  lỗ cằm, kết 
quả nghiên cứu cho thấy dạng thường gặp nhất 
là  lỗ cằm có dạng không xác định và nằm  liên 
tục  với  kênh  răng  dưới.  Tuy  nhiên,  theo  Al‐
Khateeb T. và cộng sự (2007)(1) lỗ cằm dạng tròn 
là  thường  gặp  nhất,  trong  nghiên  cứu  trên 
xương  khô  người  Việt  Nam  của  Hoàng  Tử 
Hùng, Thái Thanh Mỹ, Trần Giao Hòa, Trần Yến 
Nga  (2006)(4),  dạng  lỗ  cằm  bầu  dục  là  thường 
gặp nhất (66,04%) sự khác biệt này có lẽ do tiêu 
chí xác định các dạng lỗ cằm của chúng tôi khác 
biệt với tác giả, hoặc do yếu tố phóng đại và biến 
dạng hình ảnh chi phối. Về kiểu biểu hiện của lỗ 
cằm, kết quả nghiên  cứu  của Al‐Khateeb T. và 
cộng  sự  (2007)(1)  cũng  phù  hợp  hoàn  toàn  với 
nghiên cứu của chúng tôi. 
KẾT LUẬN 
Qua  phân  tích  đo  đạc  trên  300  hình  ảnh 
chụp X quang toàn cảnh kỹ thuật số, chúng  tôi 
có một số kết luận sau: 
Về vị trí lỗ ống răng dưới 
Theo chiều đứng, Y/H có giá trị trung bình 
là  0,30  ±  0,05  với  tỷ  lệ  cao  nhất  nằm  xung 
quanh giá  trị 0,3, nghĩa  là  theo chiều đứng  lỗ 
ống  răng  dưới  nằm  ở  khoảng  2/3  dưới  của 
cành lên xương hàm dưới. 
Theo chiều ngang, X/L có giá  trị  trung bình 
là 0,46 ± 0,05 với tỷ lệ cao nhất nằm xung quanh 
giá  trị  0,45,  nghĩa  là  theo  chiều  ngang  lỗ  ống 
răng dưới nằm  ở khoảng giữa  cành  lên xương 
hàm dưới và hơi lệch về phía sau hơn. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bên 
phải  và  bên  trái  cũng  như  nhóm  tuổi. Lỗ  ống 
răng dưới bên trái nằm về phía sau và phía trên 
hơn  so với bên phải. Ở nhóm  tuổi  lớn hơn,  lỗ 
ống  răng dưới  có  vị  trí  cao  hơn. Không  có  sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh lỗ ống 
răng dưới giữa nam và nữ.  
Về vị trí, hình dạng và kiểu biểu hiện của 
lỗ cằm 
Vị trí thường gặp nhất của lỗ cằm theo chiều 
trước sau là ở trên đường thẳng đi qua trục răng 
cối nhỏ  thứ hai  (339/600, chiếm  tỷ  lệ 56,5%),  lỗ 
cằm nằm giữa trục răng cối nhỏ thứ nhất và thứ 
hai chiếm tỷ  lệ 30%, có 12,12%  lỗ cằm nằm sau 
trục răng cối nhỏ thứ hai, 1,33% lỗ cằm nằm trên 
đường thẳng qua trục răng cối nhỏ thứ nhất và 
không có trường hợp nào lỗ cằm nằm trước trục 
răng cối nhỏ thứ nhất. Theo chiều trên dưới,  lỗ 
cằm thường nằm ở phía dưới mức chóp răng cối 
nhỏ  thứ nhất và  thứ hai  (456  /600,  chiếm  tỷ  lệ 
76%), lỗ cằm nằm ngang mức chóp răng cối nhỏ 
thứ nhất và  thứ hai  chiếm  tỷ  lệ 23,67%,  chỉ  có 
0,33%  lỗ cằm nằm  trên mức chóp răng cối nhỏ 
thứ nhất và thứ hai. Đa số các trường hợp lỗ cằm 
có sự đối xứng hai bên, theo chiều trước sau  là 
75,3 %,  theo chiều  trên dưới  là 94 %. Không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bên phải 
và  bên  trái  cũng  như  giữa  nam  và  nữ. Có  sự 
khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  hai  nhóm 
tuổi, ở nhóm tuổi > 25 lỗ cằm có khuynh hướng 
nằm về phía sau hơn.  
Về hình dạng, thường gặp nhất là lỗ cằm có 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt  309
dạng  không  xác  định  (305/600,  chiếm  tỷ  lệ 
50,84%),  lỗ  cằm  dạng  bầu  dục  chiếm  tỷ  lệ 
36,83%, lỗ cằm có dạng hình tròn chỉ có 12,33%.  
Kiểu  biểu  hiện  thường  gặp  nhất  là  lỗ  cằm 
nằm liên tục với kênh răng dưới (435 /600, chiếm 
tỷ lệ 72,5%), lỗ cằm tách biệt với kênh răng dưới 
chiếm  tỷ  lệ 19,83%,  lỗ có dạng mờ nhòa không 
xác định được có tỷ lệ 7,67%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Al‐Khateeb T, Hamasha AA, Ababneh KT (2007), “Position of 
the  mental  foramen  in  a  northern  regional  Jordanian 
population”, Surgical and Radiologic Anatomy, vol 29: pp.231‐
237. 
2. Gabriel  AC  (1958),  “Some  anatomical  features  of  the 
mandible”, Journal of Anatomy, vol 92(4): pp.580‐586. 
3. Hoàng Tử Hùng, Nguyễn Thái Phượng, Nguyễn Thị Bích Lý 
(2007), ”Đặc điểm hình thái vùng lỗ hàm dưới trên xương khô 
người Việt Nam”, Tạp chí Y Học, Đại học Y Dược TP Hồ Chí 
Minh, tập 11 (2), tr. 41‐48.  
4. Hoàng Tử Hùng, Thái Thanh Mỹ, Trần Giao Hòa, Trần Yến 
Nga (2006), “Đặc điểm hình thái vùng lỗ cằm nghiên cứu trên 
53 xương hàm dưới”, Tạp chí Y Học, Đại học Y Dược TP Hồ 
Chí Minh, tập 10 (1), tr. 129‐134. 
5. Jasser MNAl, Nwoku Al  (1998), “Radiographic study of  the 
mental  foramen  in  a  selected  Saudi  population”, 
Dentomaxillofacial Radiology, vol 27:pp 341‐343. 
6. Ngeow WC, Yuzawati Y (2003), “The  location of the mental 
foramen  in  the  selected Malay  population”,  Journal  of Oral 
science, Vol.45(3): pp.171‐175. 
7. Talabani NA, Gataa IS, Jaff K (2008), “Precise computer‐based 
localization of the mental foramen on panoramic radiographs 
in a Kurdish population”, Oral Radiology, 24: pp.59‐63. 
8. Trost  O,  Salignon  V,  Cheynel  N,  Malka  G,  Trouilloud  P 
(2010),  “A  simple  method  to  locate  mandibular  foramen: 
preliminary  radiological  study”,  Surgical  and  Radiologic 
Anatomy, vol 32: pp.927‐931. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 302_6651.pdf 302_6651.pdf