Năm 2009 là một năm không có
nhiều đột phá ấn tượng nhưng mỗi
đột phá đều đem lại những lợi ích
to lớn cho sức khỏe cộng đồng hay
mở ra những hy vọng mới cho cả
nhân loại.
10 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu 5 đột phá y học thế giới 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 đột phá y học
thế giới 2009
Năm 2009 là một năm không có
nhiều đột phá ấn tượng nhưng mỗi
đột phá đều đem lại những lợi ích
to lớn cho sức khỏe cộng đồng hay
mở ra những hy vọng mới cho cả
nhân loại.
1. Tạo tế bào gốc từ da chuột
Tạo ra một chú chuột trong phòng
thí nghiệm không khó nếu như đó
là lấy tinh trùng tiêm vào trứng.
Tuy nhiên, việc tạo ra 1 con chuột
có khả năng sinh sản từ 1 vài tế bào
da thì nó xứng đáng là một bước
đột phá. Đây là tế bào da đa năng,
hay còn gọi là tế bào iPS.
Phát hiện này mở ra khả năng con
người được nhân bản vô tính dễ
dàng bằng tế bào da người thay vì
phải dùng tế bào gốc phôi thai.
Chú chuột này được tạo ra từ 2
phòng thí nghiệm độc lập ở Trung
Quốc và thông tin được công bố
vào tháng 7 vừa qua.
2. Chế tạo vắc-xin AIDS
Trong lĩnh vực gặp nhiều thất bại
hơn là thành công này, việc các
chuyên gia phát triển một loại vắc-
xin mới hiệu quả hơn thường phải
hứng chịu những hoài nghi. Vào
tháng 9 vừa qua, 105 tỉ đô la đã
được sử dụng vào mục đích kết hợp
2 loại vắc-xin cũ và đã đem lại kết
quả khả quan. Hơn 16.000 tình
nguyện viên đã được tiêm loại vắc-
xin mới này và kết quả cho thấy
vắc-xin đã bảo vệ 31% đối tượng
được tiêm chủng. Mặc dù hiệu quả
còn khiêm tốn nhưng nó có ý nghĩa
rất lớn khi các phương pháp ngăn
ngừa dựa vào hành vi như dùng bao
cao su không đạt được hiệu quả.
3. Chế tạo vắc-xin phòng cúm
A/H1N1
Mặc dù còn gây nhiều tranh cãi do
các tác dụng phụ không mong
muốn nhưng việc chế tạo thành
công vắc-xin cúm A/H1N1 đã phần
nào xoa dịu sự căng thẳng về tốc độ
lây lan của virus H1N1.
Trước đó, 21/4 là ngày mở màn khi
TT Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ
cho biết đang mở cuộc điều tra về 2
trường hợp nhiễm chủng cúm mới,
chưa từng biết đến. Rất nhanh sau
đó, cúm A/H1N1 (chủng cúm kết
hợp giữa cúm lợn, cúm gia cầm và
cúm người) nhanh chóng lây lan
khắp toàn cầu, trở thành tâm điểm
của hơn 100 nước trên thế giới
trong suốt những tháng mùa hè và
mùa thu. Và sự lo ngại về một làn
sóng khác của đại dịch vẫn chưa
dứt khi mùa đông đang lướt qua
nhiều quốc gia trong đó có Việt
Nam.
4. Phát hiện mỡ nâu ở người
trưởng thành
Khi đang phải vật lộn để cài nút áo
ở vùng eo phì nhiêu, chắc chẳng
bao giờ bạn tự hỏi liệu chất béo
trong cơ thể bạn có màu nâu hay
màu trắng? Nhưng có lẽ là bạn nên
tìm câu trả lời bởi các nhà nghiên
cứu đã phát hiện ra rằng chất béo
nâu, do các tế bào này được bao
bọc bởi các ti thể sẫm màu mà có
khả năng bẻ gãy các phân tử đường
trong tim và tiêu thụ nhiều năng
lượng hơn chất béo trắng (nói cách
khác, chất béo nâu đốt cháy năng
lượng thay vì dự trữ) có ở người
trưởng thành.
Trước đó, các nhà nghiên cứu nhận
định rằng chất béo nâu rất dồi dào
ở thai nhi và trẻ sơ sinh - những đối
tượng cần nó để giữ ấm cơ thể khi
ở trong tử cung và lúc vừa chào
đời, chưa quen với môi trường mới.
Khi lớn lên, chất béo nâu sẽ biến
mất và lúc này chất béo trắng lại
chiếm ưu thế.
Nghiên cứu mới nhất cho thấy ở
người trưởng thành, lượng chất béo
nâu tập trung khá nhiều ở phía
trước và sau cổ, theo các nhà
nghiên cứu Thụy Điển. Công trình
này được đăng tải trên tạp chí Y
học New England vào tháng Tư. 2
nghiên cứu khác được đăng tải trên
cùng tạp chí cũng cho thấy những
người gầy có xu hướng dự trữ chất
béo này nhiều hơn so với những
người béo phì và các tế bào chất
béo nâu cũng hoạt động tích cực
hơn trong thời tiết giá lạnh.
5. Quang tuyến - Kỹ thuật phát
hiện ung thư vú cho tuổi 50
Đây được coi là một vụ xcan-đan
Washington khi trong giới khoa
học nổ ra cuộc tranh luận: nên thực
hiện kỹ thuật này từ tuổi nào để
đem lại lợi ích tối đa cho chị em.
Cuối cùng, dựa vào cách tính mới
trên cơ sở cân nhắc giữa nguy cơ
và lợi ích khi thực hiện chụp hình
vú bằng quang tuyến, chính phủ
Mỹ công nhận rằng phụ nữ ở tuổi
50 (thay vì 40 như trước đây) nên
chụp quang tuyến để phát hiện sớm
bệnh. Các đối tượng còn lại nên tự
kiểm tra định kỳ 2 bầu ngực của
mình bằng tay vì việc chụp quang
tuyến quá sớm lại làm tăng các
nguy cơ khác.
Đương nhiên, không có phương
pháp xét nghiệm nào được xem là
hoàn hảo, tức là trong số 100 phụ
nữ có kết quả quang tuyến dương
tính thì có đến 23 người không bị
ung thư vú, nhưng trong số 100
người có kết quả âm tính thì có 6
người thật sự mắc bệnh ung thư vú.
Do đó, kết quả dương tính giả và
âm tính giả là một trong những
khiếm khuyết của xét nghiệm ung
thư vú bằng quang tuyến.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5_dot_pha_y_hoc_the_gioi_2009_8434.pdf