Thiếu máu do thiếu sắt là bệnh lý phổ biến trong cộng đồng? Thiếu
máu là tình trạng bệnh lý xảy ra khi có sự thiếu hụt về kích thước và số lượng
hồng cầu hoặc giảm sổ lượng huyết cầu tố trong hồng cầu. Hậu quả của bệnh lý
thiếu máu là làm giảm sự trao đổi dưỡng khí và thán khí giữa máu và các tế bào
cơ thể, làm suy giảm chất dinh dưỡng cung cấp cho các mô tế bào. Có nhiều dạng
thiếu máu:
- Thiếu máu do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình
tạo hermoglobin, như sắt, vitamin B12, a-xít folic hay vi khoáng đồng.
- Thiếu máu do băng huyết, các bệnh hủy hoại máu trong bệnh ung th ư
bạch cầu, trong một số bệnh nhiễm, do ký sinh trùng, tác dụng của dược phẩm,
hóa chất.
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thới giới (WTO) thiếu máu xảy ra khi
lượng huyết cầu tố ở dưới mức 11mg/100ml máu đối với trẻ em từ 6 tháng đến 6
tuổi; dưới 12mg/100ml máu đối với trẻ từ trên 6 tuổi đến 14 tuổi; 13mg/100ml
máu ở nam giới và 12mg ở phụ nữ. Đối với phụ nữ mang thai làdưới 11mg/100ml
máu. Các khảo cứu tại nhiều quốc gia cho thấy, thiếu máu do thiếu sắt chiếm tới
95% các trường hợp thiếu máu dinh dưỡng. Tại các nước phát triển như Mỹ, tỷ lệ
thiếu máu do thiếu sắt chiếm 25% trẻ sơ sinh, 30% phụ nữ mang thai, 15% phụ nữ
trong thời kỳ hành kinh và 12% ở các cháu tuổi đang lớn. Tại nhiều nước nghèo,
tỷ lệ thiếu máu do thiếu chất sắt lên tới 60% phụ nữ và trẻ em đang tuổi lớn.
7 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu 5 câu hỏi thường gặp về bệnh thiếu máu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 câu hỏi thường gặp về
bệnh thiếu máu
1. Thiếu máu do thiếu sắt là bệnh lý phổ biến trong cộng đồng? Thiếu
máu là tình trạng bệnh lý xảy ra khi có sự thiếu hụt về kích thước và số lượng
hồng cầu hoặc giảm sổ lượng huyết cầu tố trong hồng cầu. Hậu quả của bệnh lý
thiếu máu là làm giảm sự trao đổi dưỡng khí và thán khí giữa máu và các tế bào
cơ thể, làm suy giảm chất dinh dưỡng cung cấp cho các mô tế bào. Có nhiều dạng
thiếu máu:
- Thiếu máu do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình
tạo hermoglobin, như sắt, vitamin B12, a-xít folic hay vi khoáng đồng.
- Thiếu máu do băng huyết, các bệnh hủy hoại máu trong bệnh ung thư
bạch cầu, trong một số bệnh nhiễm, do ký sinh trùng, tác dụng của dược phẩm,
hóa chất...
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thới giới (WTO) thiếu máu xảy ra khi
lượng huyết cầu tố ở dưới mức 11mg/100ml máu đối với trẻ em từ 6 tháng đến 6
tuổi; dưới 12mg/100ml máu đối với trẻ từ trên 6 tuổi đến 14 tuổi; 13mg/100ml
máu ở nam giới và 12mg ở phụ nữ. Đối với phụ nữ mang thai là dưới 11mg/100ml
máu. Các khảo cứu tại nhiều quốc gia cho thấy, thiếu máu do thiếu sắt chiếm tới
95% các trường hợp thiếu máu dinh dưỡng. Tại các nước phát triển như Mỹ, tỷ lệ
thiếu máu do thiếu sắt chiếm 25% trẻ sơ sinh, 30% phụ nữ mang thai, 15% phụ nữ
trong thời kỳ hành kinh và 12% ở các cháu tuổi đang lớn. Tại nhiều nước nghèo,
tỷ lệ thiếu máu do thiếu chất sắt lên tới 60% phụ nữ và trẻ em đang tuổi lớn.
Ở Việt Nam có tới 60% trẻ em từ 6 tháng đến 24 tháng và khoảng 40% phụ
nữ có thai bị thiếu máu dinh dưỡng. Thiếu máu do thiếu chất sắt có thể xảy ra ở
mọi lứa tuổi và giới tính, từ trẻ sơ sinh đến các cháu đang lớn và ở người có tuổi
và đặc biệt là ở phụ nữ. Thiếu máu có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe cộng đồng
như giảm khả năng lao động, giảm khả năng tập trung học tập, trẻ thiếu máu sẽ
thiếu năng lượng cho việc học tập, vui chơi ảnh hưởng tới kết quả học tập và phát
triển trí tuệ, ở phụ nữ - làm gia tăng nguy cơ tử vong thai phụ và trẻ em sinh ra có
nguy cơ mắc bệnh cao, yếu ớt, chậm phát triển.
2. Những nguyên nhân và triệu chứng thiếu máu do thiếu sắt
- Nguyên nhân dẫn tới bệnh lý thiếu máu do thiếu sắt có thể là, thiếu chất
sắt do chế độ ăn - uống không hợp lý, thiếu những thực phẩm giàu chất sắt, cơ thể
không hấp thụ được chất sắt do bệnh tiêu hóa như tiêu chảy, thiếu một số a-xít
trong dạ dày, bệnh đường ruột, dưới tác dụng của tân dược như các loại thuốc
chữa loét dạ dày tagamet, zantac hay kháng sinh tetracyline làm giảm dịch vị a-xít
trong dạ dày; không sử dụng chất sắt trong trường hợp mắc bệnh dạ dày kinh niên;
gia tăng nhu cầu sắt để tăng khối lượng máu ở tuổi đang lớn, có thai, nuôi con
bằng sữa mẹ, thất thoát máu do băng huyết vì thương tích, loét dạ dày, bệnh trĩ,
ung thư đường ruột, ký sinh trùng ruột hay khi có kinh nguyệt.
- Khi bị thiếu máu thường có những triệu chứng như lơ đễnh, trạng thái mệt
mỏi, khó thở khi làm việc nặng, tim đập mạnh, đau đầu, rối loạn giấc ngủ, đau lưỡi
và vòm họng gây khó nuốt thức ăn, móng tay mỏng và phẳng, tóc hay rụng và dễ
gãy. Một triệu chứng đặc biệt là bệnh nhân thích ăn đất sét, nước đá cục, mảnh
vụn sơn tường. Triệu chứng thiếu máu do thiếu chất sắt rất đa dạng, tác động tới
tất cả các bộ phận của cơ thể và các triệu chứng này không rõ ràng và dễ nhầm lẫn
ngay với cả bác sĩ - đặc biệt người bệnh là phụ nữ. Để chẩn đoán chính xác thiếu
máu, cần đến cơ sở y tế chuyên khoa để làm các xét nghiệm.
3. Vai trò của sắt đối với con người và cách dùng thực phẩm chứa sắt
phòng ngừa bệnh thiếu máu
- Trong cơ thể con người có khoảng 5-6g chất sắt, liên kết với nhiều protein
khác nhau. Khoảng 2/3 lượng sắt nằm trong huyết cầu tố và protein trong hồng
cầu. Sắt tham gia vào quá trình tổng hợp hồng cầu và là thành phần của huyết cầu
tố, giúp chuyên chở dưỡng khí đi nuôi các tế bào và giúp loại bỏ thán khí ra khỏi
cơ thể; chất sắt cũng là thành phần của nhiều loại en-zym trong hệ miễn dịch để
chống nhiễm vi khuẩn.
- Sắt còn giúp chuyển hóa là beta-carotene thành sinh tố A, tạo ra chất
collegene để liên kết các tế bào với nhau. Sắt còn có chức năng dự trữ ô-xy cho cơ
bắp, vô hiệu hóa một số thành phần lạ xâm nhập vào cơ thể, tham gia tổng hợp các
hoóc-môn tuyến tiền liệt.
- Cơ thể con người không thể tự tổng hợp được sắt, thế nên sắt được cung
cấp từ nguồn thực phẩm. Có hai lại chất sắt: Một là chất sắt heme (heme iron) có
trong các loại thực phầm nguồn gốc động vật như thịt lợn, thịt gà, thịt bò, gan
động vật và các loại hải sản, mà cơ thể hấp thụ được khoảng 10-15%, còn loại sắt
nonheme (nonheme iron) cps trong các loại thực phẩm nguồn gốc thực vật như rau
bông cải, súp lơ xanh, quả đậu, bánh mì đen và trái cây như mơ, quả bơ, lạ, hạt
hướng dương, hạt bí ngô... có thể chỉ có thể hấp thụ được khoảng 2-3%. Do vậy,
khi chọn lựa thực phẩm trong phòng ngừa thiếu chất sắt, điều quan trọng không
phải là hàm lượng sắt có trong thực phẩm là bao nhiêu mà là nguồn gốc thực
phẩm. Có rất nhiều yếu tố tác động tới mức độ hấp thụ chất sắt từ thực phẩm của
cơ thể con người.
- Các chất xơ thực phẩm, chất tanin, can-xi, đồng và thiếc, hợp chất
polifenole có chứa trong cám, đậu phụ, nước chè xanh, cà phê, lạc, các loại đậu, sô
cô la sữa, sữa bò và pho-mát làm giảm khả năng hấp thụ chất sắt của cơ thể. Để
gia tăng khả năng hấp thụ chất sắt từ thực phẩm nên dùng những thực phẩm giàu
vitamin C và axit citric như cam, quýt, lê, táo, dứa, mận, chuối, soài, dưa, bắp cải
muối chua, khoai tây, củ cải, bí ngô, súp lơ xanh.
4. Nhu cầu chất sắt hàng ngày của con người là bao nhiêu?
Chất sắt là thành phần dinh dưỡng không thể thiếu và không thể thay thế
được đối với sức khỏe con người. Nhu cầu hàng ngày của cơ thể để đảm bảo
không xẩy ra tình trạng thiếu máu là khoảng 1mg cho cả nam giới và nữ giới
(không trong chu kỳ hành kinh); đối với phụ nữ trong chu kỳ hành kinh cần được
tăng lên 2mg/ngày; phụ nữ mang thai có nhu cầu chất sắt cao hơn, khoảng 3-
4mg/ngày; thiếu niên đang tuổi trưởng thành -2mg/ngày; trẻ sơ sinh - 1,5mg/ngày.
Tuy nhiên, do khả năng hấp thụ chất sắt từ nguồn thực phẩm của cơ thể rất thấp,
nên trong thực đơn ăn - uống sắt từ nguồn thực phẩm của cơ thể phải được tăng
lên khoảng 6-10 lần tùy thuộc vào nguồn gốc thực phẩm. Viện thực phẩm và Dinh
dưỡng Ba Lan đã công bố lương chất sắt trong bữa ăn hàng ngày theo lứa tuổi và
giới tính như sau:
+ Từ 0 đến 1 tuổi: 10-15 mg/ngày
+ Từ 2 đến 9 tuổi: 10mg/ngày
+ Từ 10 tuổi đến 18 tuổi: 16-17mg (cho nữ giới) và 14-15mg (cho nam
giới).
+ Từ 19 đến 60 tuổi: 18-19mg (cho nữ giới) và 15mg (cho nam giới).
+ Trên 60 tuổi: 15mg (cho nữ giới) và 13mg (cho nam giới).
5. Những loại thực phẩm nào giầu chất sắt
- Thực phẩm giầu chất sắt phải kể tới đầu tiên là gan động vật và hạt bí ngô,
chưa 10mg/100g. Tiếp đến là lòng đỏ trứng gia cầm, giá gạo, giá đỗ, vừng, các
loại hạt đậu, đỗ: 5-8mg/100g. Hạt hướng dương, các loại sò, ốc biển, bánh mì đen,
lạc, thịt bê, cá biển - 2,5-5mg/100g. Súp lơ xanh, xu hào, cải bông xanh, gạo lức,
trái bơ, pho-mát - 0,75-1,5mg/100g.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5_cau_hoi_thuong_gap_ve_benh_thieu_mau_2023.pdf
- Untitled.jpg