Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả bảo quản tế bào gốc (TBG) tủy răng bằng dung dịch chuyên
chở mới, không đắt tiền, pha chế dễ dàng với các thành phần phổ biến ở Việt Nam.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Dung dịch chuyên chở được pha bằng cách hòa tan 3 ống
gentamycin 80mg/2ml trong 500ml dung dịch nước muối sinh lý. Nghiên cứu thử nghiệm được thực hiện trên
43 răng khôn nguyên vẹn thu thập từ các bệnh nhân 18 – 35 tuổi đến nhổ răng tại Khoa Răng Hàm Mặt. Răng
được loại bỏ mô mềm, tạo rãnh sâu 2mm trên thân – chân răng và bảo quản bằng dung dịch chuyên chở trong 6
giờ, 9 giờ, 12 giờ ở điều kiện 4°C. Đánh giá mô tủy nhiễm trùng khi môi trường nuôi cấy vẩn đục sau 3 – 5 ngày
nuôi cấy và mẫu mô tủy xem như đã chết khi không có tế bào phát triển sau 2 tuần nuôi cấy.
Kết quả: Trong 43 răng khôn, số lượng răng được bảo quản trong 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ lần lượt là 14 răng,
16 răng và 13 răng. Có 1 mẫu trong nhóm 12 giờ bị nhiễm khuẩn sau 5 ngày nuôi cấy. Tỉ lệ mẫu không nhiễm
đạt 100% ở nhóm 6 giờ và 9 giờ; 92,3% ở nhóm 12 giờ. Tỉ lệ mẫu nuôi cấy cho tế bào bám dính là 92,9% đối với
nhóm 6 giờ; 75,0% đối với nhóm 9 giờ và 53,8% đối với nhóm 12 giờ. Kết quả flow‐cytometry cho thấy quần thể
tế bào P4 được phân lập dương tính cao (>99,5%) với các marker của TBG trung mô và biểu hiện khá thấp (7,5%
‐ 10,6%) với các marker tế bào tạo máu.
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 696 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu 3 hiệu quả bảo quản tế bào gốc tủy răng của dung dịch chuyên chở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 282
3 HIỆU QUẢ BẢO QUẢN TẾ BÀO GỐC TỦY RĂNG CỦA DUNG DỊCH
CHUYÊN CHỞ
Lê Hoàng Sơn*, Ngô Thị Quỳnh Lan*, Trần Lê Bảo Hà**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả bảo quản tế bào gốc (TBG) tủy răng bằng dung dịch chuyên
chở mới, không đắt tiền, pha chế dễ dàng với các thành phần phổ biến ở Việt Nam.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Dung dịch chuyên chở được pha bằng cách hòa tan 3 ống
gentamycin 80mg/2ml trong 500ml dung dịch nước muối sinh lý. Nghiên cứu thử nghiệm được thực hiện trên
43 răng khôn nguyên vẹn thu thập từ các bệnh nhân 18 – 35 tuổi đến nhổ răng tại Khoa Răng Hàm Mặt. Răng
được loại bỏ mô mềm, tạo rãnh sâu 2mm trên thân – chân răng và bảo quản bằng dung dịch chuyên chở trong 6
giờ, 9 giờ, 12 giờ ở điều kiện 4°C. Đánh giá mô tủy nhiễm trùng khi môi trường nuôi cấy vẩn đục sau 3 – 5 ngày
nuôi cấy và mẫu mô tủy xem như đã chết khi không có tế bào phát triển sau 2 tuần nuôi cấy.
Kết quả: Trong 43 răng khôn, số lượng răng được bảo quản trong 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ lần lượt là 14 răng,
16 răng và 13 răng. Có 1 mẫu trong nhóm 12 giờ bị nhiễm khuẩn sau 5 ngày nuôi cấy. Tỉ lệ mẫu không nhiễm
đạt 100% ở nhóm 6 giờ và 9 giờ; 92,3% ở nhóm 12 giờ. Tỉ lệ mẫu nuôi cấy cho tế bào bám dính là 92,9% đối với
nhóm 6 giờ; 75,0% đối với nhóm 9 giờ và 53,8% đối với nhóm 12 giờ. Kết quả flow‐cytometry cho thấy quần thể
tế bào P4 được phân lập dương tính cao (>99,5%) với các marker của TBG trung mô và biểu hiện khá thấp (7,5%
‐ 10,6%) với các marker tế bào tạo máu.
Kết luận: Dung dịch chuyên chở đề nghị có thành phần dễ tìm, pha chế đơn giản và không đắt tiền nhưng
vẫn có hiệu quả cao trong việc bảo quản sự sống của TBG tủy răng. Các mẫu tủy răng vẫn có thể cho TBG trung
mô sau 12 giờ bảo quản và hiệu quả bảo quản tương đương với các dung dịch thương mại trong 6 giờ.
Từ khóa: tế bào gốc tủy răng, dung dịch chuyên chở, flow cytometry, tế bào gốc trung mô, marker
ABSTRACT
THE EFFICIENCY OF A NOVEL TRANSPORT SOLUTION IN
PRESERVING DENTAL PULP STEM CELLS
Le Hoang Son, Ngo Thi Quynh Lan, Tran Le Bao Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 282 ‐287
Objectives: The purpose of this study is that testing the efficiency of a suggested transport solution in
preserving dental pulp stem cells (DPSCs) in 6, 9, and 12 hours after the teeth were extracted.
Materials and Methods: A new transport solution was fomulated by mixing three jars of gentamycin
80mg/2mL (in liquid form) with 500ml sterile saline. The solution was poured into several small vials. Forty‐
three extracted intact human third molars were obtained from Oral Surgical Center at the Faculty of Odonto –
Stomatology. The teeth were divided into three groups: group A (n=14) – stored in 6h, group B (n=16) – stored in
9h and group C (n=13) – stored in 12h. Teeth were externally sterilized and DPSCs were isolated using the
protocol adapted from Stem Cell laboratory at the University of Sciences.
Results: The percentage of uncontaminated samples was 100% for group A and B, 92.3% for group C. The
* Khoa RHM – Đại học Y Dược TP. HCM
** Khoa Sinh Học – Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên – ĐHQG TP. HCM
Thông tin liên hệ: Lê Hoàng Sơn ĐT: 0933688804 Email: sonrhm07@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 283
success rate for DPSCs isolation was 92.9% for group A, 75.0% for group B and 53.8% for group C. Three
selected passage 4 DPSCs cultures showed high expression of bone – marrow mesenchymal stem – cell (MSC)
markers (>99.5%) and low expression of specific hematopoietic cells markers (7.5% ‐ 10.6%).
Conclusion: Suggested solution is not expensive, easy to solube with available ingredients, and effective in
preserving DPSCs. The pulp of extracted wisdom teeth still has viable MSCs after 12 hours preservation, and the
effect of transpotation solution is same with commercial ones in 6 hours.
Keywords: dental pulp stem cells, transport solution, flow cytometry, mesenchymal stem cells, marker
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tế bào gốc (TBG) là các tế bào có khả năng
biệt hóa thành nhiều dòng tế bào trưởng thành.
TBG được tìm thấy ở nhiều mô khác nhau như
não, tủy xương, máu, mạch máu, da, gan, mỡ,
răng, So với các loại TBG khác, TBG tủy răng
có những ưu điểm như dễ thu nhận, không gặp
những trở ngại về pháp lý và nhân quyền, tỉ lệ
tăng sinh cao, có khả năng biệt hóa thành nhiều
dạng tế bào khác nhau khi nuôi cấy trong môi
trường thích hợp và ít gây đáp ứng miễn dịch
khi cấy ghép. Kể từ khi được phân lập và nuôi
cấy thành công vào năm 2000, nhiều báo cáo về
tiềm năng biệt hóa của TBG tủy răng được các
nhà khoa học trên khắp thế giới công bố. Song
song đó, bước đầu, TBG tủy răng đang được
ứng dụng trong việc điều trị một vài bệnh liên
quan đến thần kinh, gan, tim trên động vật và
cho kết quả khả quan. Từ những phát hiện về
khả năng biệt hóa và tiềm năng sử dụng như
một nguồn vật liệu trong y học tái tạo, các nhà
khoa học đã nghĩ đến việc bảo quản lạnh chúng.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều ngân hàng TBG
răng thương mại đang hoạt động như Store‐A‐
Tooth (Lexington, MA, Hoa Kì), NDPL
(Newton, MA, Hoa Kì), StemSave (New York,
Hoa Kì), Three Bracket (Hiroshima, Nhật
Bản), Trong quy trình bảo quản, dung dịch
chuyên chở đóng vai trò rất quan trọng. Nó đảm
bảo cho răng không bị nhiễm các vi sinh vật như
vi khuẩn, vi nấm và duy trì sự sống của TBG tủy
răng. Có nhiều dung dịch được sử dụng như
DMEM, α – MEM, HBSS, PBS, Tuy nhiên, các
dung dịch này có giá thành cao, khó pha chế và
không phổ biến tại thị trường Việt Nam.
Nhằm mục đích tạo một môi trường
chuyên chở có các thành phần phổ biến, dễ
pha chế, không đắt tiền và có hiệu quả trong
việc bảo quản sự sống của TBG tủy răng, tạo
tiền đề để thành lập một ngân hàng TBG tủy
răng tại Việt Nam, chúng tôi đề nghị một dung
dịch chuyên chở mới có thành phần chính là
nước muối sinh lý và gentamycin. Nghiên cứu
này được thực hiện với vấn đề quan tâm sau:
Hiệu quả bảo quản tế bào gốc tủy răng của
dung dịch chuyên chở.
VẬT LIỆU – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
43 răng khôn vừa mới nhổ tại bộ môn Phẫu
Thuật Miệng, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y
Dược TP. HCM.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm (in
vitro), răng được bảo quản trong dung dịch
chuyên chở ở điều kiện 4°C trong các khoảng
thời gian:
(1) Trong 6 giờ.
(2) Trong 9 giờ.
(3) Trong 12 giờ.
Quy trình thực hiện
Chuẩn bị dung dịch chuyên chở
Dung dịch chuyên chở được pha chế bằng
cách hòa tan 3 ống gentamycin 80mg/2ml trong
500ml dung dịch nước muối sinh lý. Lắc đều
chai dung dịch trong 2 phút để tạo môi trường
đồng nhất. Sau đó, chiết ra mỗi ống falcon (dung
tích 15ml) 5ml dung dịch chuyên chở.
Thu thập mẫu răng
Các răng khôn còn nguyên vẹn sau khi nhổ
được làm sạch phần mô nha chu, bao răng còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 284
dính xung quanh. Sau đó, dùng tay khoan siêu
tốc và mũi khoan tròn có đường kính 2mm tạo
một rãnh trên thân – chân răng. Đưa răng vào
ống falcon có dung dịch chuyên chở và bảo
quản trong đá lạnh ở điều kiện 4°C.
Thu nhận mô tủy răng
Quy trình được thực hiện trong tủ nuôi cấy
sinh học, tại Phòng thí nghiệm nghiên cứu và
ứng dụng Tế Bào Gốc, Khoa Sinh Học, Trường
Đại học Khoa Học Tự Nhiên.
Răng được khử trùng bằng cách: sát trùng
với Povidine Iod 10% (Betadine) trong 10 phút,
sau đó rửa lại 2 lần bằng dung dịch PBS. Sau đó
dùng kéo lớn tách đôi răng để thu nhận mô tủy.
Nuôi cấy sơ cấp mô tủy răng
Mô tủy được nuôi sơ cấp theo phương
pháp nuôi cấy mảnh mô của Trần Lê Bảo Hà
và cs. (2011).
Mẫu tủy răng được cắt thành nhiều mảnh
nhỏ. Sau đó, đặt phần mô tủy răng vào đĩa 35
mm và ép vào bề mặt đĩa bằng lamelle. Thêm
môi trường DMEM/F12 có bổ sung penicillin và
streptomycin vào đĩa nuôi. Môi trường trong đĩa
nuôi cấy được thay sau mỗi 2 ngày và ủ ở điều
kiện 37°C, 5% CO2.
Nuôi cấy thứ cấp
Khi tế bào đã phủ đầy bề mặt đĩa nuôi, tiến
hành cấy chuyền thứ cấp.
Rửa sạch đĩa nuôi bằng PBS, tiếp đến, dùng
trypsin/EDTA 0,25% để tách tế bào khỏi bề mặt
đĩa. Khi tế bào đã bong ra hoàn toàn, thêm môi
trường DMEM/F12 vào dung dịch rồi huyền
phù. Sau đó, cho toàn bộ dung dịch thu được
vào bình nuôi cấy. Quá trình ủ và thay môi
trường được thực hiện tương tự như trong nuôi
cấy sơ cấp.
Khi tế bào phát triển phủ đầy bề mặt chai
nuôi, tiếp tục cấy chuyền để tạo các dòng tế bào
thứ cấp tiếp theo.
Nhận diện marker TBG tủy răng người bằng
phương pháp flow‐cytometry
Các tế bào ở lần cấy chuyền thứ 4 được
nhuộm với 10μl kháng thể có các marker CD34,
CD73, CD90, CD13, CD14 và HLA‐DR. Tiến
hành đánh giá marker bằng máy FACS Calibur
sử dụng phần mềm Cell Quest Pro.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Dung dịch chuyên chở sử dụng
Nước muối sinh lý là một dung dịch đẳng
trương với tế bào và mô cơ thể người, tạo môi
trường thuận lợi cho sự trao đổi ion và lưu
thông dịch nội – ngoại bào. Vì tính thông
dụng, không mắc tiền, khả năng duy trì tình
trạng ổn định của tế bào của dung dịch phù
hợp với yêu cầu đề tài hướng đến nên chúng
tôi chọn nước muối sinh lý là thành phần
chính của dung dịch chuyên chở.
Gentamycin là kháng sinh nhóm
Aminoglycosides, có tác dụng kiềm khuẩn phổ
rộng. Để phát huy tối đa sự tiện lợi và đơn giản
khi pha chế dung dịch, chúng tôi sử dụng
gentamycin dạng dung dịch (gentamycin
solfato, 80mg/2ml). Nồng độ gentamycin được
khuyến cáo sử dụng trong nuôi cấy tế bào động
vật có vú là 50 μg/ml, nồng độ gây độc tế bào là
3000 μg/ml. Trong nghiên cứu trước đây, tác giả
Zhang W và cs. (2006) sử dụng kháng sinh
gentamycin với nồng độ 500 μg/ml. Vì vậy,
chúng tôi sử dụng gentamycin ở nồng độ 480
μg/ml (tương ứng pha 3 chai gentamycin trong
500ml dung dịch nước muối sinh lý).
Kết quả thu nhận và khử nhiễm mô tủy
răng người
Bảng 1: Kết quả xử lý mẫu ở các nhóm
Thời gian
bảo quản Số mẫu
Số mẫu
nhiễm
% số mẫu
nhiễm
6 giờ 14 0 0%
9 giờ 16 0 0%
12 giờ 13 1 7,7%
Chung 43 1 2,3%
Không có mẫu mô tủy bị nhiễm khuẩn sau
khi được bảo quản trong dung dịch chuyên
chở 6 giờ và 9 giờ. Đối với nhóm răng được
bảo quản trong 12 giờ, có một mẫu mô tủy bị
nhiễm (tỉ lệ 7,7%), ghi nhận ở ngày thứ 3 sau
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 285
khi nuôi cấy. Mẫu bị nhiễm khuẩn được thu
ngày 11/03/2013, răng khôn hàm dưới bên trái,
bệnh nhân 24 tuổi, giới tính nữ. Xét chung tất
cả các răng được thu thập trong nghiên cứu, tỉ
lệ mẫu bị nhiễm khuẩn là 2,3% (n=43). Vì
không ghi nhận được đặc điểm bất thường ở
mẫu nhiễm và sự khác biệt tỉ lệ mẫu nhiễm ở
ba nhóm không có ý nghĩa thống kê nên chúng
tôi nghĩ nguyên nhân là do thao tác của người
thực hiện hoặc dụng cụ làm việc đã bị nhiễm
khuẩn.
Theo Perry PC và cs. (2008) khi dùng PBS để
bảo quản răng, trong 40 răng bảo quản, có 7 mẫu
bị nhiễm sau 5 ngày nuôi cấy, chiếm tỉ lệ 17,5%.
Tuy tác giả có đề cập răng việc sử dụng môi
trường HTS, PBS và MesenCult có thể bảo quản
răng đến 120 giờ ở 4°C sau khi nhổ nhưng tác
giả không đề cập đến tỉ lệ răng bị nhiễm là bao
nhiêu. Vậy, môi trường chuyên chở do chúng tôi
đề nghị có hiệu quả trong việc bảo quản mô tủy
răng không bị nhiễm khuẩn.
Kết quả nuôi cấy tế bào tủy răng
Bảng 2: Kết quả nuôi cấy mảnh mô ở các nhóm
Thời gian
bảo quản
Số
mẫu
Số mẫu có tế
bào bám dính
% số mẫu có tế
bào bám dính p*
6 giờ 14 13 92,9%
0,0279 giờ 16 12 75,0%
12 giờ 13 7 53,8%
Chung 43 32 74,4%
Theo Bảng 2, tỉ lệ mẫu nuôi cấy thành công
giảm dần qua 3 nhóm thời gian. Sự giảm tỉ lệ
mẫu nuôi cấy thành công phù hợp vì môi
trường chuyên chở đề nghị không có chất dinh
dưỡng nên sức sống của tế bào sẽ giảm đi khi
thời gian kéo dài.
Theo Perry BS và cs. (2008), số lượng TBG
tủy răng nuôi cấy được sau 14 ngày giảm có ý
nghĩa thống kê qua thời gian bảo quản (0 giờ, 24
giờ, 48 giờ và 72 giờ). Tuy nhiên, theo tác giả sự
giảm sút này không có ý nghĩa nhiều vì qua thời
gian nuôi cấy, lượng TBG tủy răng sẽ tăng lên
nhanh chóng. Đồng thời, khi tác giả nuôi cấy
mẫu ngay sau khi nhổ răng (dùng PBS làm dung
dịch chuyên chở), chỉ có 31/40 (77,5%) mẫu có tế
bào bám dính sau 14 ngày nuôi cấy. Tuy nhiên,
có khác biệt là tác giả sử dụng phương pháp
nuôi cấy tế bào đơn.
Bảng 3: Kết quả nuôi cấy mảnh mô ở nhóm bảo quản
6, 9, 12 giờ theo vị trí răng
Thời
gian
bảo
quản
Hàm trên Hàm dưới
Có tế
bào
Không
có tế
bào
Có tế
bào
Không
có tế
bào
6 giờ 5 (100%) 0 (0%) 8 (88,9%) 1 (11,1%)
9 giờ 4 (66,7%) 2 (33,3%)
8
(80,0%) 2 (20,0%)
12 giờ 3 (60,0%) 2 (40,0%)
4
(50,0%) 4 (50,0%)
Chung 12 (75,0%) 4 (25,0%)
20
(74,1%) 7 (25,9%)
Theo vị trí răng, tỉ lệ mẫu răng cho tế bào
bám dính ở 2 nhóm hàm trên và hàm dưới
tương đương nhau (75,0% và 74,1%). Kết quả
này phù hợp vì các răng khôn hàm trên và hàm
dưới có mầm răng hình thành và khoáng hóa ở
thời điểm gần như cùng lúc với nhau và đều là
răng kế tiếp. Mặc dù các răng khôn hàm dưới
chịu nhiều sang chấn hơn trong khi nhổ, nhưng
rõ ràng tiềm năng cho TBG tủy răng khi nuôi
cấy của răng khôn hàm dưới và răng khôn hàm
trên là như nhau. Như vậy, khi tiểu phẫu nhổ
răng khôn, nếu không cắt răng sẽ không ảnh
hưởng xấu đến sức sống của các tế bào trong tủy
răng.
Từ quá trình quan sát các mẫu nuôi cấy,
chúng tôi nhận thấy xuất hiện tế bào bám dính
trên đĩa nuôi sau 3 – 15 ngày nuôi cấy tùy theo
mẫu. Sau khi nuôi sơ cấp 15 – 20 ngày có hiện
tượng các tế bào hợp dòng và sau 4 – 5 tuần nuôi
sơ cấp thì các tế bào bám đầy đĩa và có thể cho
cấy chuyền để nuôi thứ cấp.
Theo Huang và cs. (2006), Trần Lê Bảo Hà
và cs. (2011), Hilkens P, Gervois P và cs. (2013)
nuôi cấy mảnh mô cho ra các tế bào có hình
dạng giống nguyên bào sợi, nhưng có kích
thước khác nhau và hình dạng ít có sai biệt.
Đồng thời, tác giả cũng ghi nhận sau 2 – 3 tuần
thì tế bào mới bám đầy đĩa nuôi và cho phép
cấy chuyền để nuôi cấy sơ cấp. So với Huang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 286
và cs. (2006), tế bào của chúng tôi có hình dạng
tương tự; tuy nhiên, thời gian cần để cấy
chuyền chậm hơn. Tuy nhiên, trong cả 3
nghiên cứu trên, tác giả không bảo quản răng
qua các khoảng thời gian như nghiên cứu của
chúng tôi. Hơn nữa, dung dịch chuyên chở sử
dụng trong nghiên cứu này không có chất
dinh dưỡng để nuôi tế bào nên lượng tế bào
còn sống trong tủy răng bị giảm đi. Tuy nhiên,
vì nghiên cứu của chúng tôi hướng đến việc
bảo quản TBG tủy răng nên không việc kéo dài
thời gian nuôi cấy không có ảnh hưởng đến
kết quả.
Nhận diện marker TBG tủy răng người
bằng phương pháp flow cytometry
Flow cytometry là một kỹ thuật có độ nhạy
cao dùng để xác định các marker bề mặt của tế
bào. Kỹ thuật này sử dụng phương pháp nhuộm
huỳnh quang gồm một kháng thể kháng marker
bề mặt có gắn màu huỳnh quang. Sau đó, các tế
bào sẽ được di chuyển theo dòng chất lỏng
xuyên qua một chùm tia sáng. Khi tế bào có
nhuộm huỳnh quang bị va đập bởi ánh sáng tập
trung thì chúng phát ra những tín hiệu khác
nhau. Tín hiệu này được cảm nhận bằng máy
dò, chuyển đến máy tính xử lí và cung cấp
thông tin.
Năm 2007, theo tiêu chuẩn của Tổ chức Liệu
Pháp Tế Bào Quốc Tế, TBG trung mô phải bám
dính được vào bề mặt nuôi cấy, biểu hiện dương
tính cao với các marker CD105, CD73, CD90 và
không biểu hiện (dương tính thấp) với các
marker CD45, CD34, CD14 hoặc CD11b, CD79 a
hoặc CD19, HLA‐DR.
Bảng 3: Nhận diện marker TBG tủy răng người bằng phương pháp flow cytometry
Tên mẫu Các marker của TBG trung mô Các marker của TBG máu
CD13 CD73 CD90 CD14 CD34 HLA-DR
TR1 27-2 99,46% 99,91% 99,58% 10,58% 8,80% 7,91%
TR3 01-3 99,56% 99,91% 99,68% 9,76% 7,92% 7,45%
TR1 11-4 99,60% 99,85% 99,69% 9,71% 8,18% 7,67%
Qua các thế hệ cấy chuyền, dòng tế bào thu
được sẽ thuần chủng hơn nhờ khả năng chọn
lọc. Theo kết quả chạy flow cytometry thế hệ P4
của ba mẫu, tất cả các marker đặc trưng cho TBG
trung mô đều biểu hiện từ 99,5% trở lên. Đối với
các marker đặc trưng cho các tế bào tạo máu, sự
biểu hiện khá thấp, dao động từ 7,5% đến 10,6%.
Đặc điểm của việc nuôi cấy mô là không có quá
trình chọn lọc tế bào ban đầu nên vẫn còn lẫn
với các tế bào tạo máu khác. Tuy nhiên, nếu cấy
chuyền đến các thế hệ sau như P5, P6, dòng tế
bào thuần hơn, tỉ lệ tế bào dương tính với các
marker tế bào tạo máu sẽ giảm. Như vậy, quần
thể tế bào P4 thu được có sự hiện diện của các
TBG tủy răng.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu
nghiên cứu là 43 răng khôn vừa mới nhổ tại
Khoa Răng Hàm Mặt. Các răng được bảo quản
bằng dung dịch nước muối sinh lý bổ sung
gentamycin theo tỉ lệ 3 ống gentamycin
80mg/2ml và 500ml dung dịch nước muối sinh
lý. Từ các kết quả cho thấy DDCC đề nghị có
khả năng bảo quản TBG tủy răng tương đương
với các dung dịch thường dùng trong 6 giờ. Ở
khoảng thời gian 9 giờ và 12 giờ thì khả năng
bảo quản thấp hơn. Như vậy, chúng tôi đã pha
chế được DDCC có hiệu quả bảo vệ sự sống
của TBG tủy răng bằng với các dung dịch
thường dùng trong 6 giờ ở điều kiện 4°C.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gronthos S, Mankani M, Brahim J, Robey PG, and Shi S
(2000), “Postnatal human dental pulp stem cells (DPSCs) in
vitro and in vivo”, Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A., 97, pp. 13625 –
13630.
2. Hoàng Tử Hùng, Huỳnh Kim Khang, Ngô Thị Quỳnh Lan,
Hoàng Đạo Bảo Trâm (2010), Mô phôi răng miệng, NXB Y học,
Hà Nội, tr. 111 – 168.
3. Huang GTJ, Sonoyama W, Chen J, and Park SH (2006), “In
vitro characterization of human dental pulp cells various
isolation methods and culturing environments”, Cell Tissue
Res, 324, pp. 225 – 236.
4. Perry PC, Zhou D, Wu X, Yang FC, Byers MA, Chu TMG,
Hockema JJ, Woods EJ and Goebel WS (2008), “Collection,
Cryopreservation, and Characterization of Human Dental
Pulp – Derived Mesenchymal Stem Cells for Banking and
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 287
Clinical Use”, Tissue Engineering, 14, pp. 149 – 156.
5. Phan Kim Ngọc, Phạm Văn Phúc (2010), Công nghệ sinh học
trên người và động vật, NXB Giáo dục, TP. HCM, tr. 127 – 207.
6. Trần Lê Bảo Hà và cs. (2011), “Nghiên cứu nuôi cấy tế bào
gốc tủy răng và tạo khung nâng đỡ chứa tế bào gốc tủy răng
người”, Đề tài khoa học công nghệ, Trường ĐH Khoa Học Tự
Nhiên, ĐH Quốc Gia TP. HCM, tr. 12 – 29.
7. Zhang W, Walboomers F, Shi S, Fan M, and Jansen JA (2006),
“Multilineage Differentiation Potential of Stem Cells Derived
from Human Dental Pulp after Cryopreservation”, Tissue
Engineering, 12, pp. 2813 – 2823.
Ngày nhận bài báo: 21/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013
Ngày đăng báo: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 282_2117.pdf