CHỐNG BÉO PHÌ :
Tên thuốc : Alli
Phòng bào chế : GSK
Được bán từ 2 năm nay.
Được bán dưới dạng thuốc viên 120 mg theo toa BS, dưới tên Xenical từ
mười năm nay bởi Phòng bào chế Roche, Alli đã được thương mãi hóa và
bán tự do vào tháng giêng bởi GlaxoSmithKline dưới dạng thuốc liều lượng
nhỏ hơn (60mg). Giấy phép đưa ra thị trường đã được phát ở mức châu Âu
và Pháp đã chống lại. Alli được chỉ định chống lại chứng béo phì và hoạt
chất của nó là Orlistat. Nó có đặc điểm làm giảm sự hấp thụ các chất mỡ qua
đường tiêu hóa.
Với việc rút ra khỏi thị trường rimonabant (Acomplia của Sanofi) vào tháng
mười 2008 và của Sibutral (sibutramine của hãng Abbott) vào tháng giêng
2010, Alli là thuốc còn lại trong chỉ định này. Nhữngtác dụng phụ của thuốc
đặc biệt khó chịu : phân như dầu, tiêu chảy đôi khi có máu. Và Alli không
được sử dụng trong trường hợp dụng thuốc kháng đông hay uống thuốc ngừa
thai. “Một tần số gia tăng những trường hợp gãy xương đã được quan sát lúc
một thử nghiệm lâm sàng nơi các thiếu niên”, tạp chí Prescrire đã báo cáo
như vậy trong số tháng ba năm 2009. Tạp chí cũng ghi nhận rằng “những
trường hợp hiếm hoi viêm tụy tạng và viêm gan đã được ghi nhận”.
Chính vì thế Alli được khuyên ngưng sử dụng trong trường hợp đau bụng
mãnh liệt. Prescrire tóm lượt Alli như sau “thường gây khó chịu và không
mang lại nhiệm màu”. Đúng là uống orlistrat trong 6 tháng, theo liều lượng 3
viên mỗi ngày, làm mất khoảng 3kg. Hiện nay thuốc trong tình trạng được
theo dõi ở châu Âu do độc tính trên gan của nó. Giới hữu trách y tế đang suy
xét lại lợi ích của thuốc so với những tác dụng phụ của nó.
16 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu 12 dược phẩm trong số được sử dụng nhiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12 DƯỢC PHẨM TRONG SỐ ĐƯỢC
SỬ DỤNG NHIỀU
CHỐNG BÉO PHÌ :
Tên thuốc : Alli
Phòng bào chế : GSK
Được bán từ 2 năm nay.
Được bán dưới dạng thuốc viên 120 mg theo toa BS, dưới tên Xenical từ
mười năm nay bởi Phòng bào chế Roche, Alli đã được thương mãi hóa và
bán tự do vào tháng giêng bởi GlaxoSmithKline dưới dạng thuốc liều lượng
nhỏ hơn (60mg). Giấy phép đưa ra thị trường đã được phát ở mức châu Âu
và Pháp đã chống lại. Alli được chỉ định chống lại chứng béo phì và hoạt
chất của nó là Orlistat. Nó có đặc điểm làm giảm sự hấp thụ các chất mỡ qua
đường tiêu hóa.
Với việc rút ra khỏi thị trường rimonabant (Acomplia của Sanofi) vào tháng
mười 2008 và của Sibutral (sibutramine của hãng Abbott) vào tháng giêng
2010, Alli là thuốc còn lại trong chỉ định này. Những tác dụng phụ của thuốc
đặc biệt khó chịu : phân như dầu, tiêu chảy đôi khi có máu. Và Alli không
được sử dụng trong trường hợp dụng thuốc kháng đông hay uống thuốc ngừa
thai. “Một tần số gia tăng những trường hợp gãy xương đã được quan sát lúc
một thử nghiệm lâm sàng nơi các thiếu niên”, tạp chí Prescrire đã báo cáo
như vậy trong số tháng ba năm 2009. Tạp chí cũng ghi nhận rằng “những
trường hợp hiếm hoi viêm tụy tạng và viêm gan đã được ghi nhận”.
Chính vì thế Alli được khuyên ngưng sử dụng trong trường hợp đau bụng
mãnh liệt. Prescrire tóm lượt Alli như sau “thường gây khó chịu và không
mang lại nhiệm màu”. Đúng là uống orlistrat trong 6 tháng, theo liều lượng 3
viên mỗi ngày, làm mất khoảng 3kg. Hiện nay thuốc trong tình trạng được
theo dõi ở châu Âu do độc tính trên gan của nó. Giới hữu trách y tế đang suy
xét lại lợi ích của thuốc so với những tác dụng phụ của nó.
CAI THUỐC LÁ
Tên thuốc : Champix, Zyban
Phòng bào chế : Pfizer, GSK
Được bán từ 4 và 10 năm nay.
Được thương mãi hóa ở Pháp từ tháng hai 2007, Champix (tartrate de
varénicline) được kê đơn cho khoảng 300.000 người mỗi năm như là
phương tiện hỗ trợ cho việc cai thuốc lá. Một sự theo dõi cảnh giác dược
(pharmacovigilance) được tăng cường cua những trường hợp rối loạn tâm
thần và những hành vi tự tử. Vào năm 2008, sau khi được đưa rất thị trường
14 tháng, 174 trường hợp tác dụng phụ nghiêm trọng đã được báo cáo, trong
số đó 92 rối loạn tâm thần. Một bilan mới được dự kiến, và việc cứu xét gia
hạn giấy phép cho lưu hành đang được tiến hành.
Trên thị trường từ 2001 cho cùng chỉ định, Zyban (bupropion) càng ngày
càng ít được kê đơn hơn. Vào năm 2010, khoảng 20.000 người đã được điều
trị bởi loại thuốc này. Afssaps báo cáo một sự theo dõi “thường quy” của
Zyban, sau khi xảy ra những trường hợp rối loạn tâm thần, trầm cảm và tự
tử. Trên thực tế, các thuốc ưu tiên một để cai thuốc lá là những chất thay thế
nicotine (substitut nicotinique), Champix và Zyban là những thuốc dùng ưu
tiên hai. Điều hướng dẫn cho sự lựa chọn của chúng ta giữa ba thứ thuốc, đó
là tỷ suất lợi ích/nguy cơ nơi một bệnh nhân xác định, BS Patrick Dupont,
tabacologue (bệnh viện Paul-Brousse, Villejuif) đã xác nhận như vậy. Thí dụ
ta biết rằng varénicline hiệu quả hơn bupropion, nhưng cách tác dụng của
chúng, các chống chỉ định và các nguy cơ tiềm tàng là khác nhau.” Theo ông
ta, trong tình trạng kiến thức hiện nay, khi một điều trị cần thiết, phải ưu tiên
các chất thay thế nicotine hơn. “Khi điều đó không thể thực hiện, Champix
và Zyban có thể được kê toa, nhưng dưới sự theo dõi, thầy thuốc chuyên
khoa thuốc lá, chủ trương cảnh giác bệnh nhân về những nguy cơ khả dĩ, đã
kết luận như vậy. BS Chast thì nghiêm khắc hơn : “Trong chừng mực ta có
những thuốc có hiệu quả và được dung nạp tốt, tôi không thấy Champix sẽ
đóng vai trò gì trong kho vũ khí điều trị.”
BỆNH LOÃNG XƯƠNG SAU MÃN KINH
Tên thuốc Protelos
Phòng bào chế : Servier
Được bán từ 5 năm nay.
Đó là một loại thuốc của Servier, đã nêu lên nhiều nghi vấn. Được thương
mãi hóa năm 2006, Protelos được kê đơn trong điều trị bệnh loãng xuống
sau thời kỳ mãn kinh (ostéoporose post-ménauposique). Tạp chí Prescrire
không mềm mỏng với renalate de strontium (hoạt chất của Protelos). “Trên
thực tiễn, có quá nhiều ẩn số chung quanh những nguy cơ của strontium”,
tạp chí này đã ghi nhận như vậy trong số tháng 7-8 năm 2005. Tờ báo viết
thêm : “các nguy cơ không được biết và định lượng rõ” và kết luận rằng
Protelos “không mang lại gì mới”.
Hiện nay, một cuộc điều tra cảnh giác dược đang được tiến hành sau khi có
báo động về nguy cơ của hội chứng tăng nhạy cảm thuốc (syndrome
d’hypersensibilité), một phản ứng dị ứng có thể nghiêm trọng. Từ khi được
thương mãi hóa, 16 trường hợp đã được báo cáo trong Liên Hiệp châu Âu,
trong đó 13 trường hợp ở Pháp. Và trong hai trường hợp, những tác dụng
phụ này đã dẫn đến tử vong của bệnh nhân. Hội chứng tăng nhạy cảm thuốc
có thể gây nên thương tổn của một hay nhiều cơ quan, đặc biệt là gan và
thận. Trong những trường hợp được báo cáo, các triệu chứng xuất hiện trong
3 đến 6 tuần sau khi bắt đầu điều trị, dưới dạng nổi ban da, thường kèm theo
sốt, một sự gia tăng thể tích của các hạch với tăng bạch cầu và những tác
dụng lên phổi, gan và thận.
Trong hầu hết các trường hợp, tiến triển thuận lợi sau khi ngừng Protelos và
sau khi cho corticostéroide. Tạp chí Prescrire do đó cho rằng khôn ngoan
hơn là sử dụng biphosphonate, đã tỏ ra có hiệu quả và có những tác dụng
phụ ít hơn.
ĐIỀU TRỊ MỤN
Tên thuốc : Minocycline
Phòng bào chế : Tonipharm
Được bán từ 28 năm
Là kháng sinh thuộc họ tétracycline, minocycline được thương mãi hóa từ
nhiều thập niên. Minocycline được kê đơn chủ yếu để điều trị những bệnh
nhiễm trùng, nhất là phổi và sinh dục và trong bệnh mụn (acné). Những tác
dụng phụ, tuy rất hiếm nhưng nghiêm trọng, đã được liệt kê bởi một điều tra
cảnh giác dược : viêm gan, hội chứng tăng nhạy cảm (syndrome
d’hypersensibilité), được gọi là Dress (Drug Rash Eosinophilia and Systemic
Symptoms), các bệnh tự miễn dịch. Những tai biến này rõ rệt thường xảy ra
hơn với minocycline so với những cycline khác. “Các thầy thuốc bệnh ngoài
da được cảnh giác rõ về những tác dụng phụ nghiêm trọng của minocycline,
xảy ra chủ yếu trên da sắc tố. Thuốc này không còn là điều trị ưu tiên một
của bệnh mụn nữa”, GS Pierre Wolkenstein, cựu chủ tịch của Hiệp hội về
bệnh học ngoài da của Pháp đã xác nhận như vậy. Một sự tái đánh giá dược
phẩm này đang được tiến hành.
Còn về isotrétinoine, một dẫn xuất của vitamine A, thuốc này dàng để điều
trị bệnh mụn thể nặng. 4 générique đang được bán trên thị trường. Một sự
theo dõi cảnh giác dược được tăng cường do các nguy cơ gây quái thai
(risque tératogène) (dị dạng thai nhi khi thuốc được sử dụng trong lúc có
thai) và những rối loạn tâm thần. Các trường hợp tự tử đã được ghi nhận.
Isotrétinoine dùng bằng đường miệng là điều trị tốt nhất của bệnh mụn thể
nàng. Các bệnh nhân sử dụng thuốc này rất được theo dõi trên bình diện y tế,
GS Wolkenstein đã nhấn mạnh như vậy, đồng thời nhắc lại rằng bệnh mụn,
nhất là thể nặng, có thể được kèm theo bởi chứng trầm cảm nhưng không có
liên hệ gì với điều trị. Bilan cảnh giác dược phải được xét lại vào năm 2011,
nhưng việc rút ra khỏi thị trường sẽ không được đặt ra, theo thầy thuốc
chuyên khoa bệnh ngoài da.
CÁC DỊ ỨNG MÙA (ALLERGIES SAISONNIERES)
Tên thuốc : Primilan
Hãng bào chế : Pierre Fabre
Được bán từ 27 năm nay
Primalan được dành để điều trị triệu chứng những biểu hiện dị ứng như viêm
mũi, viêm kết mạc hay mày đay. Hoạt chất là méquitazine, một
antihistaminique de classe H1. Đó là một dược phẩm cũ (giữa những năm
1980), chỉ hiện diện trên thị trường Pháp, ở đây thuốc rất được sử dụng, nhất
là nơi trẻ em. Thuốc được cho dưới dạng viên và sirop, với liều lượng được
thích ứng tùy theo tuổi.
Có vài tác dụng phụ, như khả năng ngủ gà (somnolence), nhất là lúc bắt đầu
điều trị, tùy theo tuổi của bệnh nhân, nhưng cũng có triệu chứng khô miệng,
các rối loạn điều tiết, bí tiểu, bón, hồi hộp, co giật. Cũng có thể có vài phản
ứng dị ứng hay một biểu hiện nhạy cảm ánh sáng (photosensibilisation).
Thuốc này được bán với toa bác sĩ.
Primalan đang được theo dõi tăng cường bởi hệ cảnh giác dược sau khi có
những ghi nhận về vài trường hợp rối loạn nhịp tim. Các antihistaminique
thuộc loại này được biết là đã gây nên loại vấn đề này (ví dụ Teldane, một
loại thuốc đã được rút ra khỏi thị trường vào năm 1997). Những
antihistaminique thuộc thế hệ cũ có nhiều phẫn ứng phụ hơn là những thuốc
mới. có thể đáp ứng cùng những chức năng điều trị.
CÁC RỐI LOẠN VỀ SỰ CHÚ Ý
Tên thuốc : Ritaline
Phòng bào chế : Novartis Pharma SA
Được bán từ 16 năm nay.
Thuốc này (hoạt chất là méthylphénidate) dành cho các trẻ em trên 6 tuổi.
Thuốc này được chỉ định trong điều trị các rối loạn về sự chú ý và tình trạng
tăng hoạt động (hyperactivité). Trong série américaine Desperate
Housewives, một trong các nữ nhân vật chính trở nên phụ thuộc các viên
thuốc Ritaline vốn được kê đơn cho trẻ em, một loại thuốc rất phổ biến bên
kia Đại tây dương. Một công trình nghiên cứu được công bố trong Drug and
Alcohol Dependence, năm 2006, cho thấy thuốc này đã được chuyển hướng
chỉ định bởi 7 triệu người Mỹ trong mục đích tăng kích thích (se doper).Ở
Pháp, Ritaline ít được kê đơn. Chính tính chất của loại thuốc này,
amphétamine, tạo nên sự phụ thuộc. Ngoài sự nghiện ngập, sự quá liều của
méthylphénidate có thể có những tác dụng lên hệ tim mạch. Chính vì vậy
thuốc này được đặt dưới sự theo dõi tăng cường. Những khuyến nghị về sự
sử dụng tốt loại thuốc này hiện đang được nghiên cứu.
CHỐNG ĐAU ĐỚN
Tên thuốc : Tramadol
Phòng bào chế : Nhiều công ty sản xuất các générique
Được bán từ hơn 10 năm nay.
Tramadol là một thuốc cô có những đặc điểm giảm đau. Opioide này ngày
nay hiện diện trong khoảng 40 loại thuốc ở Pháp, được thương mãi hóa bởi
nhiều phòng bào chế và hiện diện dưới dạng générique. Nhưng tramadol
được vài bệnh nhân lạm dụng trong bối cảnh sử dụng ma túy. Chính vì vậy,
năm 2009, các người Thụy Điển đã thực hiện một nghiên cứu nhận dạng
những tác dụng phụ. Kết quả có 104 các quan sát về sự phụ thuộc thuốc
(dépendance) trên 550 bảng thông báo về những tác đúng phụ. Những vấn
đề thường xảy ra nhất liên quan đến những hội chứng cai thuốc (syndrome
de sevrage), những trường hợp lạm dụng (usage abusif) và những trường
hợp gia tăng liều lượng. Đối với hơn một nửa bảng thông báo, các rối loạn là
trầm trọng và một nửa các bệnh nhân bị phụ thuộc thuốc đã được nhập viện
để cai tramadol. Ở Pháp một sự theo dõi đang được tiến hành vì lẽ thuốc này
gây phụ thuộc. Sau cùng Prescrire (tháng giêng 2011) ghi nhận những tác
dụng phụ loại co giật, hạ đường huyết và những tương tác thuốc (interaction
médicamenteuse). Thật đáng ngạc nhiên khi tramadol được giới thiệu như là
thuốc thay thế Di-Antalvic sắp được rút ra khỏi thị trường.
SAU THỜI KỲ MÃN KINH
Tên thuốc : Biphosphonates
Phòng bào chế : nhiều
Được bán từ 10 năm nay
Trong một thời gian lâu, điều trị chứng mãn kinh đã phải nhờ đến các
hormone. Mục tiêu là trước mắt chống lại những cơn bốc hỏa (bouffées de
chaleur) và về lâu dài chống lại chứng loãng xương. Ở Hoa Kỳ, sau khi
khám phá một nguy cơ gia tăng, nhất là ung thư vú và các bệnh tim, các toa
thuốc đã bị chậm lại. Chính vì thế trong khung cảnh ngăn ngừa các gãy
xương, những điều trị chống bệnh loãng xương bằng biphosphonates đã phát
triển rộng rãi. Rất nhiều phụ nữ vào lúc mãn kinh sử dụng những thuốc này.
Khoảng một chục loại thuốc khác nhau hiện có trên thị trường.
Những thuốc này không phải là không có tác dụng phụ. Các trường hợp
viêm thực quản đã được ghi nhận nơi các phụ nữ không tôn trọng cách sử
dụng. Nhưng, nghiêm trọng hơn, những trường hợp hoại tử xương
(ostéonécrose) của xương hàm đã được ghi nhận. Mức độ nghiêm trọng của
biến chứng này giải thích tại sao tất cả những thuốc thuộc họ này được theo
dõi tăng cường từ năm 2006. Ngoài ra, biến chứng này biện minh rằng chỉ
những phụ nữ có nguy cơ cao bị gãy xương mới nhận điều trị này.
NGHIỆN RƯỢU
Tên thuốc : Equanil
Phòng bào chế : Sanofi-Aventis (và générique: meprobamate Richard)
Được bán từ 50 năm nay
Equanil từ lâu đã được sử dụng để điều trị những triệu chứng khác nhau: lo
âu, chuột rút, mất ngủ.. Vào năm 2006, các chỉ định đã được giới hạn vào
việc giúp đỡ cai rượu, “khi tỷ suất lợi ích/nguy cơ của các benzodiazépine
không có vẻ thuận lợi.” Số các viên thuốc mỗi hộp đã được thu giảm bởi vì
thật vậy Equanil là nguồn gốc của những trường hợp tử vong do dùng quá
liều, nhất là nơi những người tình nguyện. “Dầu những tình huống thuốc này
được sử dụng như thế nào đi nữa, méprobamate có một cán cân các lợi
ích/các nguy cơ bất thuận lợi”, tạp chí Prescrire vào tháng hai 2010 đã đánh
giá như vậy, đồng thời ủng hộ việc rút thuốc này ra khỏi thị trường. “Equanil
có hiệu quả thấp, và những trường hợp quá liều là nguy hiểm. Ta cần coi
chừng nhất là khi chứng nghiện rượu mãn tính là một tình huống trong đó sử
dụng sai thuốc là một quy tắc của cuộc sống”, GS Chast, thuộc viện hàn lâm
quốc gia dược đã nói thêm vào như vậy. Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần
học và addictologie (Paris VIII), xác nhận rằng quả thật méprobamate không
có vai trò trong điều trị cai rượu, vì lẽ độ dung nạp của nó thấp hơn độ dung
nạp đối với benzodiazépine, những thuốc chuẩn trong điều trị này. Hồ sơ
phải được xem xét lại vào tháng tư năm nay.
ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
Tên thuốc : Lantus, Actos
Hãng bào chế : Sanofi Aventis, Takeda
Được bán từ 8 và 9 năm nay
Lantus là một insuline. Tác dụng của nó được triển khai trong 24 giờ. Nơi
những người bị bệnh đái đường phụ thuộc insuline (loại 1), Lantus được kết
hợp với một mũi tiêm insuline có tác dụng nhanh thực hiện trước mỗi bữa
ăn, nó cho phép kéo dài những nồng độ đường huyết trong cả ngày và làm
giảm nguy cơ bị hạ đường huyết vào ban đêm. Việc sử dụng Lantus trong
những trường hợp đái đường loại 2 (đái đường béo) thường thấy nhưng
những lợi ích mang lại ít hơn. Lantus được theo dõi từ năm 2009, hai công
trình nghiên cứu Châu Âu cho thấy rằng Lantus có thể là nguồn gốc của một
sự gia tăng các ung thư (đái đường loại 2). Hiệu quả của thuốc trong sự cân
bằng của bệnh đái đường loại 1 không xét lại việc sử dụng thuốc trong
trường hợp này. Còn Actos, một thuốc hạ đường huyết, tương tự với
Avandia, thuốc được rút ra khỏi thị trường vào tháng 11 vừa qua và một sự
gia tăng nguy cơ tim mạch. Một công trình nghiên cứu dịch tễ học đã cho
thấy rằng Actos làm gia tăng nguy cơ ung thư bàng quang, nguy cơ được xác
nhận bởi một thí nghiệm nơi chuột. Cũng làm dễ sự xuất hiện phù, việc sử
dụng nó phải được dành cho những trường hợp đặc biệt. Cũng như đối với
Lantus, Actos hiện nay được kê đơn rộng rãi.
NGHIỆN THUỐC NGỦ
Tên thuốc : Rohypnol
Hãng bào chế : Roche
Được bán từ 20 năm nay, là các thuốc ngủ trong số được ưa chuộng nhất,
Rohypnol và Stilnox (Sanofi-Aventis) đã được đưa ra thị trường cách nay
hơn 20 năm. Rohypnol, thuộc họ các benzodiazépines như thí dụ Valium,
chịu “một điều tra cảnh giác nghiện (addictovigilance) về những trường hợp
lạm dụng, phụ thuộc và sử dụng đổi hướng từ năm 2000.”, Afssaps đã xác
nhận như vậy. Rohypnol từ lâu đã là loại thuốc được chuyển hướng nhất bởi
các người nghiện ma túy, điều này khiến phải biến đổi những điều kiện kê
toa và phát thuốc vào năm 2000. Stilnox cũng chịu cùng sự theo dõi từ năm
2000. Hồ sơ của hai loại thuốc này phải được xem lại bởi giới hữu trách y tế
trong những tháng đến. Đối với GS Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần học
và addictologie (Paris VII), những thuốc an thần này có thể gây nên tình
trạng say và phụ thuộc. “Ngày nay, trong sự quản lý các rối loạn giấc ngủ,
một điểm tạo nhất trí ; không có chỉ định cho thuốc ngủ lâu dài”, thầy thuốc
tâm thần này đã nhấn mạnh như vậy. Theo ông, các thầy thuốc, kể cả những
thầy thuốc bệnh viện có khuynh hướng kê đơn quá dễ dàng các thuốc ngủ.
Và một sự cai thuốc có thể tỏ ra phục tạp với sự theo dõi y khoa.
ỨC CHẾ SỰ SINH SỮA
Tên thuốc : Parlodel
Phòng bào chế : Novartis Pharma
Được bán từ 23 năm nay.
Parlodel (bromocriptine) là một loại thuốc được kê đơn trong 3 tình huống :
ức chế sự sinh sữa đối với những phụ nữ vừa mới sinh và không muốn cho
con bú, nhưng cũng được chỉ định trong bệnh Parkinson và vài adénome.
Thuốc này dưới sự theo dõi tăng cường chỉ trong trường hợp kê đơn cho
những phụ nữ trẻ vừa mới sinh. Đối với hai chỉ định kia thì không có vấn đề.
Được dùng trong vài ngày ngay sau khi sinh, Parlodel ức chế sự sinh sữa.
Nhưng thuốc này, được kê đơn từ lâu nơi sản phụ trẻ, làm gia tăng nguy cơ
tai biến mạch máu não, xảy ra sau khi sinh. “Các phụ nữ có thai và trong
thời kỳ hậu sản có một sự tăng hoạt tính mạch máu (hyperactivité
vasculaire), GD Jean –Louis Montastruc (Toulouse) đã giải thích như vậy.
Chúng tôi đã nhận thức cách nay vài năm rằng dược phẩm này chịu trách
nhiệm các tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim nơi các sản phụ trẻ.
Mặc dầu biến cố này là hiếm hoi, nhưng nghiêm trọng. Đối với chúng tôi tỷ
suất lợi ích/nguy cơ không thuận lợi trong chỉ định ức chế sự sinh sữa. Ở
CHU de Toulouse, các thầy thuốc không còn kê toa Parlodel cho các phụ nữ
không muốn cho con bú nữa.”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 77_3088.pdf