12 đặc điểm của sức mạnh tư duy

Trong quá khứ, chúng ta có thể sáng chế ra thứ gì đó và vui vẻ

với lợi ích của nó đem lại cho tới mãi cuối đời. Thời gian đã

thay đổi. Ngày nay chúng ta cần tiếp tục đổi mới và giữ vững sự

lãnh đạo – điều đó có nghĩa là chúng ta cần có các kỹ năng tư

duy mạnh để có thể tiếp tục sản sinh ra những ý tưởng chiến

thắng mới. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa các kỹ năng tư duy

thông thường và kỹ năng tư duy sức mạnh?

Do bản chất tự nhiên của công việc, tôi có cơ hội duy nhất để

gặp rất nhiều người: nhà tư duy bên ngoài, nhà sáng chế và các

nhà đổi mới đến từ rất nhiều lĩnh vực khác nhau: công

nghệ, kinh doanh, nghệ thuật. Dưới đây tôi sẽ tổng kết ở 12 khía

cạnh khác biệt, dựa trên kinh nghiệm rút ra từ rất nhiều năm.

pdf17 trang | Chia sẻ: Kiên Trung | Ngày: 10/12/2023 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu 12 đặc điểm của sức mạnh tư duy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12 đặc điểm của sức mạnh tư duy Trong quá khứ, chúng ta có thể sáng chế ra thứ gì đó và vui vẻ với lợi ích của nó đem lại cho tới mãi cuối đời. Thời gian đã thay đổi. Ngày nay chúng ta cần tiếp tục đổi mới và giữ vững sự lãnh đạo – điều đó có nghĩa là chúng ta cần có các kỹ năng tư duy mạnh để có thể tiếp tục sản sinh ra những ý tưởng chiến thắng mới. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa các kỹ năng tư duy thông thường và kỹ năng tư duy sức mạnh? Do bản chất tự nhiên của công việc, tôi có cơ hội duy nhất để gặp rất nhiều người: nhà tư duy bên ngoài, nhà sáng chế và các nhà đổi mới đến từ rất nhiều lĩnh vực khác nhau: công nghệ, kinh doanh, nghệ thuật. Dưới đây tôi sẽ tổng kết ở 12 khía cạnh khác biệt, dựa trên kinh nghiệm rút ra từ rất nhiều năm. 1. Tư duy đa hệ và Tư duy một điểm (tập trung) Trong hầu hết các trường hợp, khi chúng ta cố gắng giải quyết một vấn đề, chúng ta thường tập trung vào những điểm rất hẹp nơi vấn đề xuất hiện. Kết quả là chúng ta tự giới hạn bản thân chỉ quan tâm tới những thành phần liên quan trực tiếp tới vấn đề. Tuy nhiên nhìn nhận vấn đề từ những góc nhìn liên quan tới phần còn lại của hệ thống nơi vấn đề xuất hiện giúp chúng ta nhận ra phạm vi cơ hội lớn hơn, hiểu biết sâu hơn về nguồn gốc của vấn đề, và nhận ra những chiến lược giải quyết một vấn đề rất khác biệt theo những mức độ khác nhau. Do vậy, chúng ta luôn luôn nên nhìn vấn đề như một thành phần của hệ thống lớn hơn và đồng thời cũng nhận biết giải pháp của chúng ta sẽ gây ra ảnh hưởng như thế nào tới tương lai của hệ thống và môi trường xung quanh. Khi chúng ta muốn cải tiến (một cách sáng tạo) một hệ thống – kỹ thuật, kinh doanh... -- chúng ta nên nhìn nhận về quá khứ để tìm thấy so với quá khứ, hệ thống đã trải qua những thay đổi nào và đâu là động lực của những sự thay đổi đó. Nhìn nhận một vấn đề hoặc một hệ thống dưới một góc nhìn khác cũng giúp nhận ra những dạng giải pháp khác nhau và các chiến lược tiến hoá khác nhau. (“Sơ đồ tư duy đa hệ” là một trong những công cụ rất mạnh chủ chốt của TRIZ, còn được biết tới dưới tên gọi “Toán tử hệ thống,” hoặc “Màn hình chín hệ.”) 2. Tư duy trừu tượng với Tư duy cụ thể Tư duy cụ thể bắt chúng ta phải đứng tại một mức độ chi tiết nằm bên trong phạm vi đã biết của các giải pháp và khái niệm và cố gắng thích nghi chúng với vấn đề của chúng ta. Kết quả là, chúng ta hoặc bị bế tắc hoặc sẽ đi tới những cải tiến nhỏ (dần dần). Tư duy trừu tượng (khái niệm hoá) đưa quá trình giải quyết vấn đề lên một tầm cao mới và phá vỡ tính ỳ tâm lý do những hình ảnh hoặc thông tin cụ thể, chi tiết tạo ra. Nó cũng giúp nhận ra sự tương tự (về giải pháp cho vấn đề) nằm ở những lĩnh vực rất khác biệt nhau. Nếu nói từ “bức tường” và bạn sẽ hình dung ngay ra một ngôi nhà làm bằng đá hoặc gạch. Tuy nhiên, nếu bạn thay thế từ “bức tường” với từ “hàng rào” chúng ta sẽ mở rộng không gian ngữ nghĩa về những điều có thể. Nhưng từ “bức tường” có thể là một thác nước, một dòng khí, hoặc một khoá ánh sáng... Nếu bạn nói từ “công ty” chúng ta ngay lập tức liên tưởng tới một văn phòng với nhân viên và bàn ghế trong khi một công ty có thể là ảo, với những nhân viên làm việc tại nhà... Khái niệm “tổ chức” sẽ làm cho chúng ta trở nên trừu tượng hóa hơn. Những khái niệm cụ thể luôn tạo ra ràng buộc cho cách tư duy sáng tạo bởi vì chúng gắn liền với những hình ảnh cụ thể và làm gia tăng tính ỳ tâm lý của chúng ta. Tư duy trừu tượng trái lại giúp nhận ra sự liên kết giữa những sự vật không liên quan và các sự kiện và đi đến những ý tưởng và khái niệm rất khác biệt. Sự phát triển của tư duy trừu tượng sẽ làm gia tăng khả năng sáng tạo của chúng ta. 3. Tư duy đột phá với Tư duy thoả hiệp TRIZ phát biểu sự xuất hiện của các mâu thuẫn là một động lực của sự phát triển của các hệ thống kỹ thuật, và cách giải quyết mâu thuẫn thông qua loại bỏ thoả hiệp giúp đạt tới những bước phát triển nhảy vọt của hệ thống. Ý tưởng giải quyết các mâu thuẫn để đạt tới giải pháp đột phá không phải do TRIZ đưa ra: điều này đã được các nhà tư tưởng vĩ đại Immanuel Kant và Georg Hegel giới thiệu từ thế kỷ 17 và 18. TRIZ cố gắng đưa lý thuyết duy vật biện chứng áp dụng vào ngành khoa học. Ví dụ, tốc độ của xe ngựa sẽ bị giới hạn bởi chính tốc độ của con ngựa kéo, không kể bạn có nỗ lực thiết kế lại chiếc xe ngựa tốt tới đâu, hoặc bạn cho con ngựa ăn tốt thế nào, hoặc bạn sử dụng tới bao nhiêu con ngựa đi chăng nữa. Để tìm ra một giải pháp đột phá – để đạt tới tốc độ cao hơn chẳng hạn, chúng ta cần thách thức cả những khái niệm hiện có và suy nghĩ về khả năng thay thế con ngựa với điều gì đó có khả năng làm cho chiếc xe đi nhanh hơn, ví dụ như một chiếc động cơ đi-ê-den (diesel) chẳng hạn. Hiển nhiên đây là một hạn chế của rất nhiều dạng hệ thống do con người tạo ra. Ví dụ, trong quá trình phát triển, các ngành kinh doanh, xã hội và các hệ thống chính trị trải qua rất nhiều mâu thuẫn. Tuy nhiên khi chúng ta đối mặt với mâu thuẫn, bộ não của chúng ta có xu hướng tiếp cận mềm mại hoá các nhu cầu và tìm kiếm giải pháp thoả hiệp thay vì tập trung vào việc tìm kiếm các giải pháp đột phá cho phép loại bỏ hoàn toàn các mâu thuẫn và giúp chúng ta đi tới những sáng tạo huỷ diệt. Do các mâu thuẫn vần tồn tại (chưa được giải quyết) – và chúng trở nên ngày một sâu sắc hơn theo thời gian. Sự nhận biết sớm về các mâu thuẫn và giải quyết chúng là một trong những chức năng quan trọng nhất của “sức mạnh” tư duy. 4. Tư duy đấu tranh/nổi bật với tư duy bảo hộ Chúng ta thường sợ khi phải tư duy đi ra bên ngoài những khái niệm hay ý tưởng đã có. Nhưng tất cả những đột phá thường chỉ xảy ra khi bạn vượt qua các rào cản do chính tính ỳ tâm lý tạo nên. Để phá vỡ các rào cản này, cần tới sự quyết liệt ở hành động, điều kiện, hay các yêu cầu. Thông thường chúng ta cần phải quyết liệt tới độ chúng ta thấy tưởng chừng như là không thể. Ví dụ, chúng ta muốn phát triển một khái niệm mới về điện thoại di động. Vậy chiếc điện thoại di động cần phải nhỏ như thế nào? Chúng ta bắt đầu nghĩ về những kích thước bình thường của một chiếc điện thoại – ví dụ, nó có thể dài 10 cm. Vậy có thể sẽ chỉ là 6 cm? SAI! Tưởng tượng chiếc điện thoại chỉ dài cỡ 1 cm, hoặc tốt hơn là 1mm, hoặc thậm chí đạt tới kích thước của một tế bào sinh học. Điều này rõ ràng tới mức sẽ tạo ra một khái niệm về chiếc điện thoại di động hoàn toàn khác biệt. Hoặc nếu bạn muốn một màn hình điện thoại di động to tới mức choán hết cả tầm mắt của mình. Bạn sẽ tạo ra những khái niệm hoàn toàn mới mẻ về chiếc màn hình: có lẽ, một màn hình máy chiếu, hoặc một màn hình gắn liền với tấm kính chắn... Chủ động đẩy giới hạn ra xa, chúng ta sẽ gia tăng cơ hội khám phá những giải pháp đột phá mới mẻ. 5. Tư duy phi tuyến với tư duy tuyến tính Có một thực tế là gần như 80-90% dự báo dài hạn của những nhà tương lai học đều sai. Một sai lầm phổ biến là họ thường dự báo dựa trên các xu hướng mà thiếu đi sự quan sát các yếu tố mới hay nhân tố mới có khả năng gây ảnh hưởng hoặc trở nên quan trọng vào ngày mai nhưng lại hoàn toàn ẩn mình hoặc không thể dự báo từ hôm nay. Điều tương tự xảy ra với lĩnh vực giải quyết vấn đề: đứng yên trong vòng một khuôn khổ khái niệm và các mối quan hệ thật khó để nhận ra những mối kết nối phi tuyến. Tư duy phi tuyến cũng giúp gắn kết những sự vật không hề liên quan ngày hôm nay nhưng có thể kết nối với nhau trong tương lai và tạo ra ảnh hưởng lớn tới công nghệ hay xã hội, ví dụ như, sự phát triển của máy vi tính cá nhân chẳng hạn. Tư duy phi tuyến không phải là dễ dàng, do hiểu những nhân tố dẫn tới sự phát triển phi tuyến của một hệ thống cụ thể, chúng ta cần nhận ra cách thức hệ thống hoạt động, cũng như các hệ trên đang vận hành thông qua cách phân tích những mâu thuẫn của ngày hôm nay sẽ được giải quyết ra sao ở ngày mai. 6. Tư duy đa dạng và tư duy đơn nhất (nhất thể) Các sáng tạo đổi mới đột phá hầu hết đều dựa trên tri thức đến từ bên ngoài. Do đó chẳng ngạc nhiên khi tôi nhận thấy một điều chung trong những nhà sáng chế và tư duy tôi may mắn được gặp gỡ là họ đều “kẻ sát thủ của tri thức.” Và một điều cũng quan trọng không kém, tất cả những con người này đều không giới hạn bản thân vào một lĩnh vực cụ thể nào: đó là một nguyên tắc, họ xử lý rất nhiều thông tin đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Một thư viện của Voltaire sống vào thế kỷ 18 có tới 6.814 cuốn sách, và hơn 2000 cuốn có dấu vết ghi chép của nhà khoa học. Thư viện của Thomas Edison có tới hơn 10.000 cuốn sách. Một người bạn của tôi, người có sáng chế đột phá trong ngành hoá học, cũng có thư viện với hơn 10.000 cuốn sách khoa học và kỹ thuật, và ông ta đã đọc gần hết chúng. Sự đa dạng giúp bạn nhìn thấy những giải pháp trong các lĩnh vực khác nhau và phát triển những trải nghiệm ít gặp giúp nhận ra các hình mẫu giữa những sự việc tưởng như không có bất cứ mối liên hệ nào. 7. Tư duy cấu trúc (hệ thống) và tư duy ngẫu nhiên Chúng ta thường suy nghĩ để giải quyết một vấn đề “lớn” theo cách thức sáng tạo chúng ta phải “không cần học hỏi và phi cấu trúc hoá” càng nhiều càng tốt. Đúng, bởi vì điều đó giúp chúng ta chống lại tính ỳ tâm lý. Nhưng như tác giả G. Altshuller, cha đẻ của TRIZ, không học hỏi và phi cấu trúc chỉ làm việc tốt khi chúng ta giải quyết các vấn đề có mức khó thấp đòi hỏi số phép thử không nhiều để tìm ra giải pháp. Một lúc nào đó trong đời, bạn sẽ may mắn. Nhưng khi chúng ta liên tục gặp vấn đề với độ phức tạp cao, chúng ta cần cấu trúc lại quy trình giải quyết vấn đề. Chúng ta phải có một lộ trình để định hướng từ vấn đề tới giải pháp, tái sử dụng những trải nghiệm quá khứ, và các mẫu cho phép tạo ra giải pháp mạnh mẽ. Các quy trình có giết chế tính sáng tạo hay không? Không một chút nào cả. Người Rome cổ xưa coi công việc tính toán là một nghệ thuật và dựa trên các nguyên tắc sáng tạo. Ngày nay các phép tính này đã hoàn toàn được tự động hóa và không còn ai phải làm việc này nữa. Đưa các quy trình có cấu trúc chặt chẽ vào hỗ trợ giải quyết vấn đề không có nghĩa là giết chết sáng tạo thông qua việc hành chính hoá: sức tưởng tượng sáng tạo vẫn còn nguyên ý nghĩa to lớn để tìm ra một giải pháp cuối cùng. Nhưng chúng ta có thể đi xa hơn trong việc tiết kiệm thời gian và nỗ lực thông qua quy trình có cấu trúc và do vậy tránh được những lỗi lầm đắt giá. Điều quan trọng nhất là một quy trình có mạnh mẽ có cấu trúc và định nghĩa rõ ràng. 8. Tư duy lý tưởng với Tư duy tiêu thụ (hưởng thụ) Ngay từ nhỏ chúng ta đã học nếu muốn thứ gì, chúng ta cần phải trả giá bằng thứ gì đó. Nếu bạn muốn có một chiếc xe, bạn cần phải bỏ tiền ra để mua nó. Nếu bạn muốn khởi sự doanh nghiệp, bạn cần phải đầu tư, tìm người hợp tác, mua một công nghệ mới, thiết bị văn phòng,... Nếu bạn muốn xây một ngôi nhà, chúng ta cần gạch, kính, gỗ... Tuy nhiên, “cái giá phải trả” hoàn toàn khác nhau cho cùng một kết quả, và đó là điều mà chúng ta không được học rõ ràng. Một lần, tôi phải giúp khách hàng có vấn đề với chiếc robot không được điều chỉnh phù hợp với công việc, và kết quả là họ mất hoàn toàn một sản phẩm. Khách hàng liên hệ với nhà sản xuất robot người đề xuất một phiên bản nâng cấp robot trong vài tháng thông qua việc thêm một số bộ phận điện tử và cơ khí, nhưng giải pháp như vậy đòi hỏi khách hàng phải mất thêm gần 500 nghìn Euro. Một chút quá đắt, nhưng cũng là một lựa chọn duy nhất. Tuy nhiên, thông qua cách phát biểu khái niệm “Kết quả lý tưởng cuối cùng” chúng tôi có thể giải quyết vấn đề trong vòng một giờ và có thể đưa vào triển khai thực tế trong vòng một ngày: chúng tôi chỉ sử dụng các nguồn lực có sẵn trong quy trình sản xuất. Kết quả: không có sản phẩm nào bị mất mát. Lý tưởng là một khái niệm rất mạnh bắt buộc chúng ta phải nhận ra những nguồn lực dự trữ để đạt tới mục tiêu đề ra. Một vài năm trước đây, nếu bạn muốn có xuất bản một đoạn băng video trên trang web của công ty, chúng ta sẽ phải trả rất nhiều cho những kênh truyền thông băng thông lớn. Ngày nay chúng ta chỉ cần nạp đoạn video đó lên trên trang YouTube, liên kết (link) với nó, và chẳng phải trả bất cứ xu nào. Những nguồn lực như vậy tồn tại ở khắp mọi nơi – và những người tư duy khôn ngoan sẽ có thể đạt tới kết quả cực kỳ bất ngờ thông qua việc sử dụng đúng nguồn lực vào đúng thời điểm, hoặc thậm chí tạo ra những nguồn lực có giá trị cho người khác sử dụng. 9. Tư duy “Mục tiêu cuối cùng” với Tư duy hời hợt Các mục tiêu là tất cả. Các mục tiêu quyết định kết quả của chúng ta, thiện chí của chúng ta, và cả chiến lược của chúng ta. Nếu chúng ta thiết lập một mục tiêu sai lầm, chúng ta sẽ phải trả giá; nếu chúng ta thiết lập mục tiêu yếu kém, chúng ta sẽ đạt tới kết quả yếu kém. Tôi còn nhớ vài năm trước tôi đã đọc một bài báo trên tạp chí Times, của một nhà nghiên cứu về chữa trị bệnh ung thư. Kết luận của ông ta là hầu hết các nghiên cứu của Mỹ đều tập trung vào việc làm tiêu từng phần (giảm kích thước) hơn là định hướng làm thế nào để tiêu diệt toàn bộ khối u... Nhưng giảm kích thước khối u không có nghĩa là loại bỏ được nó? Không nhất thiết cứ phải làm như thế mãi. Với TRIZ, G. Altshuller đưa ra khái niệm về một “Mục tiêu cuối cùng”: hãy thiết lập các mục tiêu có vẻ là không thể với ngày hôm nay: vươn tới các vì sao, hay loại bỏ hoàn toàn nạn đói, và các mục tiêu tương tự như vậy. Có thể, chúng ta sẽ không thể đạt tới mục tiêu viễn tưởng đó trong suốt cuộc đời của mình, nhưng quá trình thực hiện điều đó sẽ chắc chắn là lớn hơn rất nhiều so với mục tiêu nhỏ đặt ra ngay ở bước khởi đầu. 10. Tư duy tiến hoá với tư duy thử-và-sai Trước TRIZ, hầu hết các sáng tạo đều được tạo ra nhờ phương pháp thử và sai. Tuy nhiên các nghiên cứu của TRIZ đã khám phá ra các luật và xu hướng của các hệ thống nhân tạo, và tri thức về những xu hướng này trở thành cần thiết để chúng ta nhìn thấy tương lai của các hệ thống mà không phải đoán mò. Ví dụ, chúng ta biết về những hệ thống cụ thể ở giai đoạn đầu tiên sẽ có xu hướng gia tăng mức độ linh hoạt thông qua tăng kích thước, phân nhỏ thành nhiều thành phần, và tăng cường mức độ linh hoạt của các mối liên kết giữa các thành phần; nhưng khi hệ thống vượt qua một điểm nhất định của quá trình tiến hoá, một số lượng các thành phần, kích thước, và mức độ linh hoạt của toàn bộ hệ thống sẽ bị suy giảm. Ví dụ, hãy xem xét quá trình phát triển của hệ thống lưu trữ của máy tính: đầu tiên là các thiết bị từ tính nhằm lưu trữ thông tin gồm có những tệp băng từ rất lớn với các thành phần dịch chuyển và chiếm rất nhiều chỗ. Sau đó chúng được thay thế bằng các tệp ghi, ổ cứng, và cả đĩa quang (DVD). Ngày nay, chúng ta thậm chí còn tiến tới loại bỏ cả các ổ cứng: chúng sẽ không còn cần thiết khi chúng ta có thể thay bằng những thiết bị nhỏ, tiết kiệm năng lượng, dung lượng lớn (tương tự như thẻ nhớ USB) mà không có bất cứ thành phần chuyển động cơ nào. Dưới sự phát triển của cơ khí sẽ giúp làm giảm thời gian một ý tưởng mới ra đời, phát triển và gia nhập thị trường vào đúng thời điểm. 11. Tư duy dài hạn với Tư duy ngắn hạn Sửa chữa ngay lỗi lầm ngắn hạn hay đầu tư vào tương lai? Tất nhiên, trong một vài trường hợp sửa lỗi ngay là cần thiết và chấp nhận được, nhưng khi chúng ta tư duy chỉ giới hạn vào những sự vụ chúng ta sẽ bị chúng “đè” nghiến. Cho đến một ngày chúng ta sẽ nhận ra những đối phó ngắn hạn sẽ không còn mấy tác dụng nhưng chúng ta cũng không còn đủ thời gian và nguồn lực để tránh thảm hoạ đang tới gần. Do vậy những đối phó ngắn hạn sẽ chỉ có giá trị nếu chúng cân bằng với các mục tiêu đầu tư dài hạn. 12. Tư duy viển vông với Tư duy thực tiễn Đây chính là điểm vai trò của tưởng tượng sáng tạo trở nên cực kỳ cần thiết. Trong cuốn sách “Tâm lý học sáng tạo” xuất bản vào năm 1896, nhà tâm lý học người Pháp Theodule Ribot đã cho biết chúng ta đạt tới đỉnh cao sáng tạo vào những năm 12 – 14 tuổi, sau đó năng lực này suy giảm dần theo thời gian. Và điều đó là sự thật: khi chúng ta còn trẻ, chúng ta chơi các trò chơi, sáng chế ra nhiều nhân vật tưởng tượng, khám phá không gian... và do vậy chúng ta tăng cường kỹ năng tưởng tượng sáng tạo với các trò chơi đó, không có bất cứ ai yêu cầu chúng ta chỉ được phép chơi trong phạm vi của những “lý do” (ND – hạn chế mang tính chất lý do). Do đó chúng ta thường xuyên vượt qua giới hạn của kiến thức và trở nên thư giãn với những giới hạn của tâm trí. Khi chúng ta trở nên già hơn, chúng ta bị ngập vào thế giới của các lý do và thậm chí còn bị trừng phạt về những tư duy điên rồ. Nhưng không có con đường nào khác: di chuyển “ra ngoài biên giới của chiếc hộp” bắt buộc chúng ta phải vượt qua các giới hạn của trí tuệ. Thật may mắn, trí tưởng tượng sáng tạo không phải là điều huyền bí; bất cứ ai cũng sở hữu nó và có thể phát triển trí tưởng tượng của bản thân. Cuối cùng, tôi cho rằng điều quan trọng nhất G. Altshuller và TRIZ đóng góp không phải là một hộp công cụ nhằm hỗ trợ các giai đoạn của sáng tạo, mà còn vượt xa hơn thế, giúp cho chúng ta học hỏi và xây dựng sức mạnh tư duy của mỗi cá nhân. www.SAGA.vn l Valeri V. Souchkov

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf12_dac_diem_cua_suc_manh_tu_duy.pdf